Page 273 - Nhân Vật Lịch Sử Tiêu Biểu
P. 273
Nguyễn Tri Phương) và Tán dương Tôn Thất Tri tử trận. Giữa
trận tiên chỉ huy quân sĩ đánh giặc, chủ tướng Nguyễn Tri Phương
trúng đạn trọng thương. Tối ngày 25 tháng 2, quân ta đành phải
rút khỏi chiến lũy về đồn Thuận Kiều, sau đó vê Biên Hòa. Mặc dù
phải rút quân để bảo toàn lực lượng, nhưng cuộc chiến đấu của
quân ta trong hai ngày 24 và 25 tháng 2 đã làm cho giới quân sự
Pháp vô cùng khâm phục và thừa nhận: “Những đội quân thiện
chiến của Phó vương Sài Gòn (chỉ Nguyễn Tri Phương) trong nhiều
trường hợp, đã tỏ rõ một sự dũng cảm mà những quân đội dày dạn
của châu Âu không thể không khâm phục”1.
Điều đáng tiếc là trong khi Nguyễn Tri Phương bị thương nặng
phải về Biên Hòa chữa trị, thì ỏ triều đình Huế cũng như những
người cầm quân ở Nam Kỳ, không còn tiếp tục thực hiện điều mà
Nguyễn Tri Phương đã bày tỏ là “chỉ nên chuyên mặt đánh và giữ”
nữa, mà khắp nơi chỉ nói đến chữ “hòa”. “Hòa” làm sao được với kẻ
địch đầy âm mưu nham hiếm đang đà lợi thế.
Năm sau, triều đình Nguyễn đã ký Hòa ước với Pháp (1862),
chịu m ất ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Thực dân Pháp chưa dừng
tại dó, 5 nãm sau (1867), chúng chiếm nốt ba tỉnh miển Tây Nam
Kỳ, rồi sau 5 năm nữa (1872), giặc Pháp bắt đầu đem quân ra Bắc
Kỳ. Để chuẩn bị đánh chiếm Bắc Kỳ, thực dân Pháp tăng cường
hoạt dộng do thám. Đuypuy cấu kết vói bọn tướng lĩnh nhà Thanh
ở Quảng Đông và Quảng Tây ngang nhiên đi lại dọc tuyến sông
Hồng từ Vân Nam xuống Hà Nội. Tình hình Bắc Kỳ trở nên phức
tạp. Triều đình Huế lại củ Nguyễn Tri Phương ra Bắc.
Ngày 27 tháng 5 năm 1873, ông ra đến Hà Nội. Sau khi hiểu
rõ hoạt động của đốỉ phương và tìm cách thướng thuyết không có
kết quả, ông đành phải dùng biện pháp cứng rắn, cấm các thuyền
của Pháp ngược sông Hồng đi Vân Nam (Trung Quốc), nếu trái
lệnh sẽ bị bắn. Tiếp đó, ông cho lập nhiều đồn dọc sông Hồng đê
1. J .c Baurác: La Cochinchine et ses habitants, Saigon, 1899, p.137.
27 5