Page 61 - Xã Hội Việt Nam Thế Kỷ XVII
P. 61
việc đếm thuyền cho người khác. Những chiến thuyền này
dài chừng ba mươi đến ba mươi nhăm thước và rộng chừng
mười bốn, mười lăm thước. Không có gì trở ra hai bên sườn
như thuyền chiến Âu cháu ở đằng đầu, cũng không có mũi
nhọn (để đâm thủng tàu bên địch). Bánh lái giống như bánh
lái đò chở trên sông, ở cuối thuyền chớ không ở một bên mạn
những thuyền to như thuyền rồng mỗi bên mạn có hai mươi
nhăm mái chèo; thuyền bè có mười tám hoặc hai mươi chiếc
thôi. Mỗi mái một người chèo; thành ra thuyên thủ chỉ có từ
năm đến sáu chục người vừa chèo chống giỏi lại vừa chinh
chiến quen; đến dịp thì buông tay chèo, họ với súng lúc nào
cũng để gần cạnh và họ biết cách dùng rất thắng lợi. Nhiều
thuyền không dùng còi, những viên thuyền trưởng ngồi trên,
trong cái phòng hay một cái đài cao đặt ở đằng lái, một tay
cầm một thanh gố gõ vào một thanh khác cầm ở tay kia lúc
mau, lúc chậm để sai khiến sức nhanh chậm của thuyền, bọn
thủy thủ bơi rất đúng với mệnh lệnh của thuyền tướng. Họ
phải là bọn đồng tuổi đồng sức vóc, khéo léo và thạo việc;
họ đi chần đất đóng một chiếc khố nhưng mặc áo may cùng
một thứ vải với mũ. Trên thuyền chỗ sang trọng nhất ở đằng
lái: đấy có một khoang thuyền rất xinh xắn và cân xứng với
thuyền, bên ngoài có nét chạm trổ rất đẹp mạ vàng; bên trong
có dát vàng, quét sơn tinh tế và phủ những bức thêu bằng lụa;
dưới sàn trải chiếu cói mảnh; chung quanh khoang có bao lơn
và nhiều cột nhỏ đặt như chung quanh một dãy hành lang;
có một hai khẩu thần công đặt trên giá chứa được tám cân
đạn. Thuyền cũng có sân (tillac) và... (tenda) mũi thuyền và
lái thuyền đều tròn và cất cao khỏi mặt nước chừng bốn năm
thước có trạm nhiều hình và lá nổi, thếp vàng, sơn màu rất
thanh nhã và đẹp mắt. Mạn thuyền là chỗ đặt bơi chèo cũng
được trang điểm bằng những hình chạy thành hàng chung
quanh thành. Họ không dùng nhựa thông hoặc mỡ bò phết
thuyền, nhưng một thứ sơn thường pha giống như sáp Tây
62