Page 52 - Xã Hội Việt Nam Thế Kỷ XVII
P. 52
lên ngang ngực. Triều phụ và lối vào chầu vua ấy trông thật lạ
lùng. Nhưng ta thấy dấu hiệu sự tùng phục và lòng tôn kính
lúc họ mới đi mấy bước đầu rồi phủ phục khi họ vào đại điện
là chỗ vua ban chầu: Trước nhất phải quỳ lễ bốn lễ đẩu gối trái
xuống trước, gối phải xuống sau, đầu dập xuống đất. Bắt đầu
từ cửa điện hay tự chỗ ta đứng: tính cho đúng để đến khi làm
lễ thứ tư thì ta đến đúng dưới chân vua. Xong rổi ta đứng dậy
và hai bàn tay chắp lại, ngón nọ vào ngón kia, giấu kín trong
ống tay áo, ta giơ tay lên ngang đầu rồi cúi nhẹ mình, ta chúc
vua vạn tuế.
Nên biết là có năm lối chào khác nhau... Với vua thì
nói: Tôi tấu đức vua (Tôì tâù đúc Bua). Với chúa thì nói:
Tôi... chúa? (Tôi doù ciua). Với các vương thân quốc thích;
Tôi... đức ông (Tôi thẩn đức où). Với người trên thì nói: Tôi
trình (Toy cieng). Với kẻ ngang hàng thì: Tôi nói (Tôi Nby).
Các quan đại thẩn tan chầu vội vàng rời cung điện và chạy
rất mau về nhà. Không làm như thế là trái phép. Các người
cưỡi ngựa, cưỡi voi, qua trước hoàng cung, cũng phải xuống
đi đất. Đàn bà không phải theo những nghi tắc này, nhưng
khi gặp kẻ hàng trên phải chào, thì họ dừng lại và ngồi sụp
xuống đất; xong rồi họ chắp hai tay lại và cúi mình lễ, chân
chạm đất năm lần; có khi nói chuyện với nhau họ cũng ngồi
như thế trên chiếu, vì ở (Bắc kỳ) không có ghế chỉ dùng
chiếu trải trên đất. Tại các nhà quan, có một chiếc sập cao
chừng một thước trên trải chiếu, không có thảm, dùng để
ngồi nói chuyện. Tiếp người ngang hàng thì họ mời cùng
ngồi trên chiếc sập; tiếp thuộc hạ, họ cho ngồi xuống chiếu
cặp đỏ thấp hơn bực; còn như kẻ thường thường thì cho
ngồi chiếu đơn; bọn cùng đinh thì phải ngồi sệp xuống chỗ
đất không trải chiếu. Khi đi chơi họ không bàn công chuyện
làm ăn; chỉ khi ngồi hay lúc đứng hai tay không nhúc nhích
họ mới bàn đến công việc thôi; các cố đạo cũng bắt chước
cho nên lúc giảng kinh, mình không cử động, tay không
53