Page 46 - Xã Hội Việt Nam Thế Kỷ XVII
P. 46
chổng bắt được đã ở nhà người đàn ông khác trong ít lâu,
thì có khi người chổng cũng không đau đớn, vợ chồng vì thế
cũng không bất hòa, người chồng mong được chút lợi ghê
tởm và khốn nạn để cùng chung hưởng với vỢ.
Nhưng ta chớ nên vội kết luận rằng tất cả đàn bà hạ lưu
đều trụy lạc cả đâu. Chỉ những nơi nào đông người, có thuyền
buôn ngoại quốc đến đậu họ mới hư hỏng thôi. Còn trong các
thành thị và các làng, người (Đàng Ngoài) sống giản dị, lương
thiện hơn và những chuyện tầm bậy của những kẻ dại dột
thiếu hạnh kiểm không thể làm lu mờ và làm phật ý những
bà mặc y phục giản dị cốt ý gìn giữ danh tiết hơn cả những
đàn bà Âu châu và Đông phương. Có lẽ ta có thể trách họ để
hở chân đi đất nhưng phong tục ở đây như thế, hai nữa là đất
đồng bằng mềm, dễ đi không có đá.
Trừ mặt và hai bàn tay để hở, họ bận một cái áo rộng, gần
giống kiểu áo thầy tu, trên cổ rất hẹp, dài từ trên vai xuống
hai bàn chân; đầu đội nón không đeo mạng; vành nón rất
rộng tựa như dù che nắng làm bằng lá một thứ cây mọc trong
xứ, tờ nọ xếp lên tờ kia rất khéo và khâu liền với nhau bằng
một thứ dây lấy ở một cây thân gai như cây sậy. Nón bán khá
đắt nhưng không có gì nhẹ hơn, tiện hơn để che nắng, hơn
cả dù vì dù còn phải cầm tay chớ nón đã có quai rất đẹp cũng
làm bằng dây (khâu nón) buộc từ hai bên thanh xuống cằm
để cho nón khỏi rơi dù có gió mạnh.
Ngày tết đàn bà ăn mặc rất đẹp, tai đeo “hoa” rất đắt và
rất quý; cổ đeo nhiễu chuỗi ngọc trai rất xinh; tay đeo vòng
bằng vàng trá^^^ hay san hô; nhưng ngón tay thì không bao
giờ mang nhẫn. Áo bằng vải rất mịn hàng bougran, bông
hay lụa “lin”, và một thứ hàng nữa gọi là Bo (vải bố?) mua ở
Trung Hoa sang và cũng mịn như những vải tốt nhất ở Hòa
(1) Chữ này trong sách gốc bị mờ, tự dạng giống chữ “trá”, nên chưa rõ chữ gì.
47