Page 28 - Xã Hội Việt Nam Thế Kỷ XVII
P. 28

họ không nghĩ rằng đi chân không là trái lễ nữa (như để đầu
          trần). Dù đi giầy hay đi chân đất, họ cũng không ngại giá*^^
          chân vô ý hay cố ý vấy bùn, vì trong mỗi nhà ở bực cửa đã có

          sẵn một bể nước sạch để rửa chân; còn ai có dép thì khi vào
          nhà, bỏ ở cửa - khi ra mới lấy lại - vì trong nhà, nền đã trải
          chiếu rồi không còn lo bẩn chân nữa.

              Đã biết rõ rằng người Trung kỳ không cố chấp về hành
          vi của mình mà đến phải như người Trung Hoa thì khinh
          miệt hành vi của người ngoại quốc,  nên các giáo  sĩ của ta
          ở các xứ này không phải lo đổi kiểu áo;  áo này cũng giống
          kiểu  áo  chung cho  toàn  cõi  Ấn  Độ,  các vị  ấy mặc  một  áo

          tu bằng những bông mỏng, kêu là Ehingon, thường thường
          màu xanh da trời, đi ra chỗ đông không mặc áo dài nào khác
          và không có áo quàng.

              Tuy vậy họ không đi giầy, kiểu Âu châu và kiểu bản xứ; vì
          thứ trên thì không thể có được, ở đây không ai biết làm; còn
          kiểu dưới thì họ không dùng được vì rất bất tiện cho những
          người không dùng quen, làm chân đau đớn tại các khuy làm

          dép hẹp lại nhưng lại làm choãi những ngón chân ra, ngón
          nọ cách ngón kia xa quá.  Nên họ thích đi chân không, lúc
          đầu bị đau chân luôn luôn vừa tại đất ẩm thấp, vừa tại chưa
          quen. Thật ra ít lâu tự nhiên cũng quen đi và chân cứng làm
          cho người ta không thấy khó gì cả, dù có phải đi trên những

          đường đẩy đá hay giẫm lên gai góc nữa. Riêng tôi, tôi đi quen
          nên khi trở về Ma Cao, tôi phải khó nhọc mới đi được giầy
          lúc bấy giờ sao mà nặng và bận chân tôi thế.

                                        (Relation de la nouvelle Mission
                                     des Pères de la Compagnie de Ịésus
                                        au Royaume de la Cochinchine,
                                               chương V, trang 44 - 56)

          (1)  ở  đây giống nghĩa từ “nếu”.


                                        29
   23   24   25   26   27   28   29   30   31   32   33