Page 19 - Xã Hội Việt Nam Thế Kỷ XVII
P. 19
... Tuy ta có thể cho sự điềm đạm ấy là do ở bản tính họ
vốn lành, nhưng cũng phải nhận là một phần lớn do ở sự họ
tôn kính và sùng bái vua và tướng. Họ gọi vua là thiên tử và
sùng bái vua như một đấng thiêng liêng tự trên trời xuống
để cai trị họ, vì thế trước mặt ngài, không bao giờ họ làm gì
khiến ngài thất ý hay phải tức giận. Sự sùng bái ẫy là căn bản
cái tục họ theo hàng năm như sau đây.
Vào quãng tháng Sáu nguyệt lịch*^^ - thường thường
vào tháng Tám của ta*^^ - vua ban một đạo dụ truyền cho
quân tướng đúng ngày đến tuyên thệ tỏ lòng trung thành
với vua... ở các công trường, ở các ngả đường chính trong
kinh thành người ta thiết lập những hương án bầy biện trang
hoàng vẫn để thờ thần: ở chính giữa hương án, đã biên lời
thề bằng chữ to, họ đứng dưới chân hương án cũng nom rõ;
hứa sẽ trung với vua và nếu sai lời thì phải trăm nghìn thứ tai
nạn... Muốn tránh sự hỗn độn vì lính đến thề rất nhiều và
lễ tuyên thệ nội trong một ngày xong, người ta đặt rất nhiều
hương án, mỗi hương án dành riêng cho mấy tướng và mấy
đội lính, có một quan ván được cử ra thay vua để làm chủ lễ
và để sau khi đâ tuyên thệ rồi thì phát cho mỗi tên lính một
mảnh giấy chứng nhận rằng họ đã thề và đã được nhận vào
làm lính nhà vua. Tướng từng đội lên trước, long trọng thể
giữ trung với nhà vua, rồi lần lượt đến quần lính, viên chủ
lễ phát cho mỗi tên một mảnh giấy biên chữ khác nhau, tùy
theo giọng nói lúc tên ấy tuyên thệ.
Ai nói tiếng to, rõ ràng, quả quyết thì được chữ minh
nghĩa là “rõ”. Ai nói nhỏ, giọng đục phải chữ bất minh nghĩa
“không rõ”. Còn lại nói giọng vừa phải thì được chữ thuận
nghĩa là “thường”. Những mảnh giẫy ấy không phải là vô
giá đâu: vì mỗi người lính, đợi lễ tất, đem giấy về cho chủ
(1) Tức âm lịch.
(2) Tức tháng 8 dương lịch.
20