Page 14 - Xã Hội Việt Nam Thế Kỷ XVII
P. 14
Sau cùng đến đức vua, ngồi trên một chiếc kiệu chói lọi
phủ một tấm rèm quý giá thêu kim tuyến và màu xanh, màu
ấy là màu riêng vua mới được dùng.
Theo hàng thứ và nghi trượng như thế, đức vua ra khỏi
hoàng cung vẫn gọi là Đền, chu vi rộng bằng một tỉnh lớn,
rồi qua những phố chính kinh thành, thường gọi là Kẻ Chợ,
mà chảy đến một nơi đồng rộng cách kinh thành chừng gẩn
một dặm; ở đó các quan đi hộ giá đến từ trước và dân chúng
đã đợi sẵn để đón vua. Đến nơi đức vua xuống kiệu và sau khi
đã khẫn nguyện và rót rượu tế trời. Ngài thân cầm lẫy cán một
chiếc cày có vẽ màu và chạm trổ rất đẹp, cày đất vài phút và mở
một luống trong cánh đồng, để dạy cho dân chúng biết rằng
từ đây phải làm lụng, bỏ sự an nhàn và chăm nom đồng áng.
Đức vua cày xong rỗi, thì chúa Trịnh là người quản trị
nước có thế lực rất lớn và có uy quyền trên hết cả thần dân,
tiến đến gần, vái vua, mình cúi rạp xuống tận đất. Rồi các
hoàng thân, các võ tướng và các quan cũng làm như vậy; sau
cùng thì đến lính và cả quần dân quỳ xuống mà tung hô vua.
Hàng năm về đầu xuân, đó là sự tôn kính, sự báo ơn long
trọng nhất của thần dân đối với vua.
(Chương III, trang 11 -13)
Đất kinh kỳ về đẩu thế kỷ XVII
Điều làm cho vua xứ Bắc có thế lực khiến các vua lân
cận khiếp sợ, là số dân đông vô kể ở bảy trấn dưới quyển
vua cai trị, cứ xem số người thường ở Kẻ Chợ là nơi vua lập
triều đình thì đủ biết. Tuy rằng kinh kỳ dài hơn sáu nghìn
bộ^*’, ngang cũng chừng bấy nhiêu, phố xá rộng rãi, mười hay
(1) Một bộ bằng năm thước, chỉ đơn vị đo chiểu dài thời xUa. Mỗi thước là khoảng
0,425m. 1 bộ = 2,125m, 6.000 bộ = 12.750m = 12,75km.
15