Page 13 - Xã Hội Việt Nam Thế Kỷ XVII
P. 13

Lễ tịch điền về đời




                 Nội các tục được dân thành tâm theo ở Bắc có một tục
             chính là tục hàng năm vào hồi đầu xuân thì theo để khai đất
             và để khởi đầu việc cày bừa một cách long trọng. Cứ đầu năm,
             tức là vào khoảng giữa hai tiết đông chí và xuân phân - theo
             như lối  ta tính thì vào  tuần  trăng non vào  gần ngày mồng
             năm tháng Hai dương lịch nhất, đến ngày các nhà toán số đã
             chọn, thường thường vào mồng ba Tết, thì mọi người có chức
             vụ, hay tước vỊ trong nghề võ hay văn, đều phải mặc lễ phục,
             đeo ấn thụ vào cung để hộ tống vua ngự giá qua kinh thành ra
             tới vùng nhà quê, theo nghi tiết tôi sẽ tả theo đây.

                 Quân lính gọi ở khắp trong nước về, dàn đi trước có thứ
             tự và rất đông, vì họ đến mấy nghìn người, người nào cũng
             đeo  khí  giới  của  đội  mình,  người  thì  cung  tên,  người  thì
             thương, giáo hay súng. Theo sau là các tướng và tất cả những
             người quý phái, tùy theo  chức phận,  một phẩn cưỡi  ngựa,

             một phần cưỡi voi; ngựa và voi có tới hơn ba trăm con, đểu
             đóng yên phủ bành sang trọng, đã dạy dỗ thuần thục.
                 Đại  tướng  thống  lĩnh  quân  đội  và  là  phó  vương  cầm
             quyển trị nước, hiệu là chúa Thanh Đô vương^^* đi sau cùng

             bọn quý tộc, ngồi trên một chiếc xe thấp thếp vàng, theo sau
             có  một  con voi  đóng bành  lộng lẫy có  người  dắt,  khi  nào
             chúa thích thì lại cưỡi và điểu khiển đủ mọi lối khiến  cho
             dân chúng vui thích ngắm nhìn tỏ vẻ kính cẩn và thán phục.

                 Đi bộ theo sau là một số đông vô kể, những ông nghè,
             ông cử, ông tú mặc áo dải lụa hay gấm vóc màu tím thẫm,
             mỗi người có thẻ bài chỉ rõ chức vụ và phẩm trật của mình.

             (1)  Đẩu để của người dịch. Trong bài bao giờ cũng hết sức dịch theo đúng nguyên
                 văn vì thế có nhiẽu đoạn hơi khắc khổ và một vài điểu xét đoán sai của tác giả,
                 người dịch cũng vẫn để. (Nguyên chú)
             (2)  Tức Thanh Đô vương Trịnh Tráng (1577 - 1657).


                                           14
   8   9   10   11   12   13   14   15   16   17   18