Page 131 - Xã Hội Việt Nam Thế Kỷ XVII
P. 131
đã luôn luôn đánh từ lúc chúa nhập quan cho đến khi linh
cữu chúa rước xuống thuyên. Vì năm 1683 trong dịp tang
chúa Tây Vương, các chuông đều im lặng.
Khi mọi việc đã sắp đặt sẵn thì các thuyền dùng để chở
được lệnh cập bến cạnh xưởng binh khí cách phủ chúa chỉ
độ nửa giờ chớ không đến hai ngày như ông Tavernier kể.
Linh cữu rước ra thuyền theo cách sau này.
Nhiều cơ binh bận quần áo sắc đen, vác binh khí và có
chủ tướng đi kèm, sắp hàng đầu đi oai nghiêm và lặng lẽ; rồi
đến hai người to lớn khác thường tay cầm thương, tay cẩm
bìa bắn tên, mặt đeo nạ để dọa ma quỷ, đi mở đường cho linh
cữu; đoạn đến phường bát âm, cho trống, kèn, chiêng... cử
những điệu tang thật ra rất uể oải; tiếp đến bức trướng đề
chức tước của chúa được truy tặng lại còn quan trọng hơn
lúc sinh thời... trướng thêu chỉ vàng trên nền hàng damas
tốt, màu đỏ sẫm (écarlate ou cramlist), lổng vào trong một cái
khung cao từ hai đến ba toise và rộng một toise, đặt trên một
chiếc giá có từ hai mươi đến ba mươi vệ binh của chúa khiêng
(một toise là thước đo bên Âu châu thuở xưa, chừng lth93).
Sau đến một chiếc ngai thếp vàng trong đặt tượng (Phật?)
được người khiêng rất kính cẩn; hai lá cờ nhỏ rồi mới đến
chiếc đòn khiêng linh cữu chúa; đòn thếp vàng và chạm trổ
rất tốn tiền và kỳ lạ. Đòn có từ một trăm đến một trám năm
mươi người lính khiêng có hàng lối và im lặng chớ linh cữu
không đặt lên trên một chiếc xe có tám con hươu kéo và có
tám viên tướng dắt như lời ông Tavernier kể đâu (vì trong xứ
này ít khi thấy có hươu và nai?); chung quanh linh cữu có tàn
quạt che vừa cho khỏi nắng, vừa để trưng bày.
Sau linh cữu đến thế tử tức là tân chúa, các vương tử,
mặc quán áo dệt bằng những sợi lụa thô thừa bỏ, giống như
thứ vải chúng ta may túi, giống như vải bao màu nâu xám
132