Page 468 - Việt Sử Kỷ Yếu
P. 468
mẽ. Chính quyền Pháp vẫn còn dè dặt, e ngại va chạm với các
cường quốc Au Mỹ, nhất là Anh nên không vội động binh. Do các
lái buôn và sĩ quan thôi thúc, nhà cầm quyền vẫn theo đuổi ý đồ
xâm lược thuộc địa. Các năm 1840, 1841, nhiều tàu chiến Pháp
sang đóng tại vùng biển Trung Quốc, uy hiếp triều Thanh và triều
Nguyễn. Thủ tướng Guizot nói: Nước Pháp không thể vắng mặt ỏ
Viễn Đông trong lúc các nước Àu châu khác đều đã có căn cứ ở đó.
Từ năm 1843 đến năm 1847, nhiều tàu chiến Pháp thị uy 3 lần ở
Đà Nang. Năm 1847, Rigault de Genouilly thấy thuyền của ta đến
gần và quân đội ta trên bồ rộn rịp liền đốt phá hết các thuyền của
ta ở đấy, rồi bỏ đi. Năm 1851, các thuyền chiến Pháp lại cập bến ở
vịnh Bắc Kỳ và các cửa biển Phú Yên, Cam Ranh, 0 Cấp.
Trong khi ấy, vua nước ta cấm đạo Gia Tô vì cho là tả đạo,
một phần cũng e ngại bọn gián điệp mặc áo thầy tu hoạt động.
Nhưng đó là biện pháp trái đạo lý và thất sách, đẩy giáo dân đôi
lập với triều đình. Giáo hoàng Grégoire XVII gửi thư cho giáo đồ
khích động mối bất ibình của họ đôl với nhà vua. Thực dân Pháp
vin vào cớ đó xúc tiến âm mưu xâm lược.
Năm 1852, Napoléon III lập lại nền đê chế, ráo riết đẩy
mạnh công cuộc chiếm thuộc địa. Bấy giờ, Pháp và Anh không còn
kình địch, lại sát cánh với nhau trên chiến thắng Nga và Trung
Quốíc. Đây là thời cơ thuận tiện để đưa quân do đánh chiếm đất
nước ta yếu kém. Thượng quốc thì nhà Thanh cũng suy nhược,
từng bị lép vế với nước Anh, chắc chắn chẳng dám can thiệp. Các
giáo sĩ ở Việt Nam gửi thư về nước nói rõ tình hình suy đôA cực độ
của triều đình Huế, đề nghị can thiệp bằng vũ lực. Năm 1857,
Napoléon III thành lập Hội đồng Giao Chỉ (tiếng Cochinchine xưa
người Âu chỉ nước ta: Giao Chỉ, sau khi người Pháp chiếm đất nước
ta mới lấy tiếng này chỉ xứ Nam Kỳ) nhằm xét lại hiệp ước
Versailles 1787 mà hỢp pháp hoá việc mang quân sang chiém nước
ta, chỉ để tiếp tục truyền thông và trung thành với quốc sách đã được
theo đuổi từ chế độ này sang chế độ khác. Tháng 7 năm 1875,
Napoléon III thông qua quyết định vũ trang xâm lược Giao Chỉ.
Trần Trọng Kim trong VNSL viết: Nguyên từ năm 1851 khi
có chỉ dụ cấm đạo lần thứ hai, ở Bắc Kỳ có mấy giáo sĩ là Bonard,
Charbonnier, Matheron và giám mục Iphanho (Tây Ban Nha)
Diaz bị giết, còn những giáo sĩ khác phải đào hầm hoặc trôn tránh
trong rừng núi để giảng đạo. Những tin tức ấy về bên Tây, các báo
chí ngày ngày kể những thảm trạng của những giáo sĩ đi truyền
468