Page 454 - Việt Sử Kỷ Yếu
P. 454
Chất Trì ở ư Đông. Tháng 9 âl, Chất Trì sai người sang xin hoà.
Đôi bên thoả thuận đều giải binh.
Tháng chạp âl năm 1846, Nặc ông Đôn dâng biểu tạ tội, sai
sứ đem phẩm vật triều công. Tháng 2 âl năm sau (1847), Thiệu
Trị phong Nặc Ong Đôn làm Cao Miên quốc vương và phong Mỹ
Lâm quận chúa làm Cao Miên quận chúa, hạ chiếu cho quân thứ ở
Trấn Tây rút về An Giang. Từ đấy, Campuchia (Chân Lạp) lại có
vua và việc ở miền nam nước ta mới được yên.
VIỆC GIAO THIỆP VỚI NƯỚC PHÁP - Từ khi Thiệu Trị lên ngôi,
việc cấm đạo có nguôi một chút. Nhưng triều đình vẫn ghét đạo.
Có mấy giáo sĩ người ngoại quốc phải giam ở Huế. Có người đem
tin cho trung tá Pháp Pavin Levêque coi tàu Héroine. Levêque
đem tàu vào Đà Nang xin cho 5 giáo sĩ được tha.
Năm 1845, có giám mục Leíèbre phải án xử tử. Quản tàu Mỹ
ở Đà Nang xin không được, báo tin cho thiếu tướng Pháp Cécile.
Cécile sai quân đem tàu Alemène vào Đà Nang lĩnh giám mục ra.
Năm 1847, quan Pháp được tin ở Huế không còn có giáo sĩ
phải giam, sai đại tá De Lapierre và trung tá Rigault de Genouilly
đem chiến thuyền vào Đà Nang xin bỏ chỉ dụ cấm đạo và cho
người trong nước được tự do theo đạo mới. Hai bên còn đang
thương nghị thì quan binh Pháp thấy thuyền của ta đóng gần
Pháp và ỏ trên bờ lại thấy quân ta sắp sửa đồn luỹ, mới nghi có sự
phản trắc nên chúng bắn chìm cả những thuyền ấy, rồi nhổ neo
kéo buồm ra biển. Thiệu Trị tức giận, lại ra dụ ra cấm ngặt người
ngoại quốc vào giảng đạo và trị tội người trong nước theo đạo.
LUẬN VỀ VUA THIỆU TRỊ - Tháng 9 âl nám 1847, Thiệu Trị phải
bệnh mất, làm vua vua 7 năm, hưởng linh 37 tuổi, miếu hiệu là
Hiến TỔ Chương hoàng đế.
Thiệu Trị là vua tầm thường, không có gì đáng chê lắm nhưng
cũng chẳng có gì đáng khen ngợi, không đến nỗi hèn, mà chẳng phải
là tài giỏi. Thòi bấy giờ, nước ta cần phải có lãnh tụ anh minh, am
hiểu thời thế mà biết cách đôi phó với người ngoại dương.
NGUYỄN D ực TÔNG 1848 - 1883
huý HỔNG NHẬM (1828 - 1883)
N iên hiêu: Tự Đức
đUc độ v u a Tự ĐỦC - Thiệu Trị truyền ngôi cho con thứ hai
Hồng Nhậm. Tháng 10 âl năm 1847, vua mới lên ngôi, lấy niên
hiệu là Tự Đức; năm đầu kể từ năm Mậu Thân (1848).
454