Page 440 - Việt Sử Kỷ Yếu
P. 440
và 1 tổng 2 xã thuộc Hải Hậu, 1 tổng nay thuộc huyện Giao Thuỷ,
tỉnh Nam Định. Hệ thông thuỷ lợi được xây dựng trên vùng đất
mới khai hoang. Đặt các kho thóc tại các làng ấp đề phòng khi mất
mùa đói kém, gọi là xã thương.
Công cuộc doanh điền này không tạo nên một sô" ít đại địa
chủ như thời chúa Nguyễn xưa ở miền nam, mà tạo nên nên nhiều
trung nông và nhất là nhiều tiểu nông: Ruộng đất khai thác được
chỉ một phần cấp làm tư điền, còn phần lớn thành công điền quân
cấp cho các người đã có công lao.
Thấy việc làm của Nguyễn Công Trứ kết quả tốt đẹp, Minh
Mệnh cho mở rộng doanh điền ở các tỉnh, nhất là ở Nam kỳ. Tổng
đốc An Giang Trương Minh Giảng lập được 41 xã thôn và phường
phô". (Sang đòi Tự Đức, Nguyễn Tri Phương lập được 124 ấp trong
các tỉnh Gia Định, Vĩnh Long, An Giang, Định Tường).
VIỆC VÕ BỊ - Minh Mệnh thường d ụ truyền bảo các quan phải
luyện tập binh mã đề phòng khi hữu sự. Nơi hiểm yếu lập đồn ải,
cửa biển và các đảo lập pháo đài.
Binh chế có bộ binh, thuỷ binh, tượng binh, kỵ binh và pháo
thủ binh. Bộ binh có kinh binh và cơ binh. Kinh binh đóng giữ
kinh thành hợc sai đi các tỉnh, chia làm doanh, vệ, đội. Mỗi doanh
5 vệ, mỗi vệ 10 đội, mỗi đội 50 người, có xuất đội và đội trưởng cao
quản. Binh khí có súng thần công, súng điểu thương. Cơ binh là
lính riêng của từng tỉnh, cũng chia cơ, đội.
Tượng binh chia thành đội, mỗi đội 40 con voi. Sô" voi ở kinh
thành 150 con, Bắc Thành 110, Gia Định thành 75, Quảng Nam
35, Bình Định 30, Nghệ An 21, các tỉnh khác miền trung từ 7 đến
15 con.
Thuỷ quân có 15 vệ, chia ra làm 3 doanh, mỗi doanh có
chưởng vệ quản lĩnh. Đô thông coi cả 3 doanh.
Các toán giáo dưỡng binh được lập cho con quan võ vào học,
được hưởng học bổng.
Tuy nhà vua lưu ý đến việc binh lính, nhưng người trong
nước bấy giờ trọng văn khinh võ, ngày thường ít chăm lo đến việc
binh, chỉ khi lâm sự mới rô"i lên. Quân sô" trong sổ sách thì nhiều
mà. thực sự thường không có đủ.
S ự GIẶC GIÃ - Dưới thời Minh Mệnh trong nước lắm giặc giã
do lòngíngưòi miền bắc còn tưởng nhớ nhà Lê, quan lại nhũng
nhiễu, nhà vua lại hẹp hòi không bao dung công thần, người Xiêm
La I muôn tranh quyền bảo hộ Chân Lạp và Ai Lao, tù trưởng
440