Page 411 - Việt Sử Kỷ Yếu
P. 411

cấp  ruộng  công  cày  cấy.  Ruộng  tư  hỏ  hoang  phái  tịch  thu  làm
       ruộng công, cấp cho những người có sức lao động.
             Nhờ đó,  chỉ  trong  mấy năm,  sản  xuât nông nghiệp  được phục
       hồi  nhanh  chóng,  mùa  màng  trở  lại  phong  đăng,  công  thương
       nghiệp phát triển.
             VIỆC  VĂN  HỌC  -  Văn  hoá,  giáo  dục  phát  triển.  Quang  Trung
       đặc  hiệt  khác  với  các  vua  chúa  tiền  triều,  hiết  tôn  trọng  tiếng  nói
       của  người  nước  nhà,  trọng dụng chữ  Nôm.  Thứ  chữ  này  xây  dựng
       trên  cơ  sớ  chữ  Hán,  đã  trơ  thành  văn  tự  dân  tộc,  ghi  lại  trung
       thành tiếng nói  của  dân  ta.  Trong công việc cai  trị,  giấy tò thường
       hay dùng chữ Nôm.  Người Việt  phái dùng tiếng Việt,  đê gây thành
       tinh  thần  nước  nhà,  văn  chương  đặc  hiệt,  không  phải  đi  mượn
       tiếng chữ của người  Hán.  Các chiếu chỉ,  mệnh  lệnh, cho đến văn tế
       trời  đất  viết bằng chữ  Nôm.  Trong  khoa  thi,  đáu  dê  ra  và  văn bài
       của  sĩ  tử  đều  dùng  chữ  Nôm.  Đây  là  bưức  tiến  hộ  lớn  vê  văn  hoá
       dân  tộc.  Thòi  bấy  giờ,  nhiều  sĩ  phu  quá  say  mê  văn  học  chữ  Hán,
       không hiếu  rõ ý  nghĩa  hay  ấy,  cho  nôm  na  là  mách  qué.  Có  người
       , đã đến trường rồi mà lại bỏ không chịu vào dự thi.
             Ngay  từ  năm  1789,  đã  mở  kỳ  thi  hương  (i  Nghệ  An  để  kén
       chọn  người có văn học ra  làm  quan.  Giải  nguyên  Trần  Văn  Kỳ trở
       thành bí thư đắc lực của nhà vua.
             Việc học phổ hiến đến tận thôn xã. Trong chiếu Tập Học, Quang
       Trung ra lệnh cho các xã lập nhà xã học, chọn người hay chữ và có đức
       hạnh ra giảng dạy.  Phủ huyện có chức huấn  đạo  phụ  trách  việc học.
       Các địa phương sử dụng một số đền chùa làm ti’ường học.
             Thòi bấy giờ, các giáo sĩ truyền dạo Gia Tô người Âu  đã dùng
       mẫu tự La tinh  ghép vẩn để viết tiếng nước ta,  tạo thành chữ quốc
       ngữ  ngày nay.  Thứ chữ này,  người  học chóng biết  đọc và  viết.  Còn
       chữ  Nôm  thì  phải  thông  chữ  Hán  mới  học  đọc  học  viết  được  mất
       rất  nhiều  công phu,  trong  lâu  năm  học  tập.  Tiếc  rằng xưa  Quang
       Trung  không  hiết  đến  thứ  chữ  quốc  ngữ  mẫu  tự  La  tinh  để  bắt
       buộc dân ta học ngay từ thời đó.
             VIỆC LÀM CHÙA CHIỀN - Quang Trung  thấy  xã  thôn  nào  cũng
       có chùa chiền,  mà những người đi tu thì ngu dôt, không mấy người
       đạt  được  đạo cao  siêu  của  nhà  Phật,  chỉ  dùng lễ  bái  đánh  lừa  dân
       ngu,  ra lệnh bắt bỏ  những chùa  nhỏ,  đem  gạch  gỗ làm  ít chùa rất
       to,  rất  đẹp,  thường  là ở các phủ huyện,  đón  những cao tăng có học
       thức,  đạo  đức  ỏ  coi  chùa  thò  Phật  giảng  kinh.  Còn  những  thầy
       chùa  không  xứng  đáng  thì  hắt  về  hoàn  tục  lao  động  sản  xuất.  Y
                                                                              411
   406   407   408   409   410   411   412   413   414   415   416