Page 410 - Việt Sử Kỷ Yếu
P. 410
cấp mỗi người một thẻ bài, khắc bôn chữ thiên hạ dại tín, thẻ ghi
tên họ, quê quán vả điểm chỉ làm tin (tựa như thẻ căn cước ngày
nay). Người nào cũng phải đeo thẻ ấy, gọi là tín hài. Ai không có
thẻ này là dân lậu, hắt xung vào quân phòng. Không phân biệt
giàu nghèo, sang hèn, việc lập hộ khẩu chỉ phân hiệt theo tuôi tác
là biện pháp tiến bộ cần thiết về mật quân sự, mà cá vể mặt kinh
tế, tài chính, ổn định trật tự xã hội.
Tố chức quân đội gồm thuỷ binh, bộ binh, kỵ binh, tượng
binh, pháo binh. Chiến thuyên có nhiều loại, loại lớn được voi
chiến, trang bị từ 50 đến 60 đại bác và chở được từ 500 đên 700
binh sĩ. Vũ khí, ngoài giáo, mác. cung tên... còn có súng trường,
đại bác gắn vào thuyền đặt trên mình voi và hoả hô là loại ông
phun lửa rất lợi hại.
VIỆC THUẾ KHOÁ - Chính sách thuê khoá đ(Jn gián. Ruộng
công chia làm ba hạng: hạng nhất mỗi mẫu phái nộp 150 bát thóc
(mỗi bát chừng 0,5 lít), hạng nhì 80 bát, hạng ba 50 bát. Lại thu
tiền thập vật mỗi mẫu một tiền và tiền khoán khô" mỗi mẫu 50
đồng. Ruộng tư cũng đánh thuế, hạng nhất 40 hát thóc, hạng nhì
30, hạng ba 20. Tiền thập vật cũng theo như ruộng công, còn tiền
khoán khô" 30 đồng.
Thuế nhân định thòi Lê, Trịnh mỗi xuất 1 quan 2 tiền và 4
bát gạo, thêm 6 tiền thuế điệu. Quang Trung bãi bỏ thuê điệu.
Dân Thanh Nghệ trước đây được miễn hay giám nhiều sắc
thuê do phải cung cấp lính túc vệ. Quang Trung thi hành thông
nhất mọi miền trong nước về thuế khoá.
Về thuế thổ sản và công thương nghiệp, Quang Trung cũng
bãi bỏ một sô" thuế nặng nề đô tạo điều kiện sản xuâ"t và kinh
doanh dễ dàng cho giới công thương. Việc thông thương vơi Trung
Quốc qua biên giới được miễn thuê".
VIỆC KHUYẾN NÔNG- Do loạn lạc kéo dài, nội chiên phân liệt
và kháng chiến chô"ng ngoại xâm, ruộng đất bị bỏ hoang rất nhiều.
Nông dân bị bần cùng, xiêu tán, nhiều xóm làng trd nên hoang
vắng. Mất mùa, đói kém, dân gian trôi dạt lưu ly. Quang Trung
ban bô" chiếu khuyên nông, đề ra biện pháp giải quyết nạn lưu
vong và tình trạng ruộng đất hỏ hoang, tận dụng sức lao động và
sản xuất nông nghiệp.
Dân phiêu tán đều phải trở vê quê quán nhận ruộng cày cấy.
Bọn lưu mạnh trôn sưu dịch ẩn núp trong các chùa phải hoàn tục,
trở về quê quán làm ăn lương thiện. Dân lưu tán trơ về quê được
410