Page 345 - Việt Sử Kỷ Yếu
P. 345

Các chúa Trịnh chú ý nhiều  đến việc khai mỏ.  Việc khai thác
      thường  giao  cho  các  tù  trưởng  miền  núi.  Các  tù  trương  lại  cho
      thương nhân  Trung Quôh thầu và thuê  người  khai thác.  Quyền lợi
      về tay người Hoa.  Của  10 phần nhả nước không thu  được một.  Phu
      mỏ  người  Hoa  sang lại hay quấy  nhiễu  dân  sự.  Chúa Trịnh  Cương
      năm  1717  định  lệ  người  Hoa  sang khai  mỏ  đông lắm  chỉ  được  300
      người,  chỗ  vừa  200,  chỗ  ít  100  mà  thôi.  Thế mà  về sau  có  nơi  phu
      khách  có  đên  sô  vạn,  sinh  sự  đánh  nhau,  thường  phải  dùng binh
      lính đánh dẹp mãi  mới xong.
            Nhà  Thanh  lại  lợi  dụng  tình  thê  lấn  mất  của  ta  nhiều  mỏ
      quan  trọng  ở  biên  giới.  Qua  nhiều  lần  thương  lượng,  họ  mới  chịu
      trả xưởng chì ở châu VỊ Xuyên và mỏ đồng Tụ Long.
            Người  nước  ta  có  Hoàng  Văn  Kỳ,  Nguyễn  Đình  Huấn,
      Nguyễn  Danh  Thường xin  chiêu  mộ  người  đi  khai  thác  mỏ và nộp
      thuế.  Có  người  thuê  nhân  công  Hoa  khai  thác  trộm  hị  tội.  Chúa
      Trịnh  Doanh  giao  cho  các  trọng  thần  và  trấn  quan,  mỗi  người
      quản  lý  một  hai  khu  mỏ,  xuất  vôn  riêng tuỳ  tiện  chiêu  tập  người
      làm,  miễn thuế cho  5  nám.  Vì của cải  ơ đấy,  công tư đều có  lợi:  kẻ
      đứng  ra  mộ  người  làm  không  ngại  khó  nhọc  phí  tổn,  mỏ  này  mỏ
      khác nhộn nhịp,  mà của rừng núi đều được lấy ra  hết.
            Thời  bấy  giờ,  kỹ  thuật  khai  thác  thấp  kém  nên  lợi  lộc  không
      nhiều.  Các  hầm  mỏ  do  người  Hoa  thầu  thì  sản  phẩm  thu  được  họ
      chơ  về  Trung  Quôc.  Người  Bắc  lấy  được hạc  thì  mang về  nước  họ.
      Bạc đã đem về nước họ thì không phải là bạc của ta nữa.
            VIỆC  ĐÚC  TIỂN  -  Thời  Hậu  Lê  vẫn  tiêu  tiền  Hồng Đức  và  ở  các
      trấn nào cũng có sở đúc tiền. Vì có những sự nhũng lạm nên đến năm
       1755, Trịnh Doanh bỏ sỏ đúc tiền ở các trân mà chỉ để hai sở gần đất
      kinh sư.  Năm  1776,  sau khi họ Trịnh lấy được đất Thuận Hoá, lại mở
      lò đúc tiền ở Phú Xuân, đúc ra 3 vạn quan tiền cảnh Hưng nữa.
            Cũng  có  đúc  ra  bạc  lạng  đê  tiêu  dùng.  Mỗi  lạng  là  10  đồng,
      mỗi đồng giá 2 tiền.  Bạc ấy chặt ra mà tiêu cũng được.
            Sự  ĐONG  LƯỜNG  -  Trước  vẫn  theo  lôl  cũ,  cứ  6  hạp  là  một
      thăng.  Từ năm  1664,  Phạm  Công Trứ định  lại,  lấy một cái ô"ng gọi
      là hoàng chung quản làm chừng, ông ấy đựng được  1.200 hột thóc
      đen,  gọi  là  một  thược,  rồi  cứ  10  thược  là  một  hạp,  10  hạp  là  một
      thăng,  10 thăng là một đấu,  10 đấu là một hộc.
            VIỆC ĐÁNH DẸP CÁC TOÁN QUÂN Nổl DẬY TRONG N ư ớc - Những
      năm  cuôl  thế kỷ  XVI,  chiến  tranh  Trịnh  Mạc  gây  rất  nhiều  thiệt
      hại  cho  sản  xuất,  lại  gặp  luôn  mấy  năm  nước  lụt,  đại  hạn,  mất
                                                                             345
   340   341   342   343   344   345   346   347   348   349   350