Page 344 - Việt Sử Kỷ Yếu
P. 344
phần thuế. Đất hãi dâu mỗi mẫu nộp thuê 1 quan 2 tiền, chỗ trồng
dâu nộp một nửa hằng tơ.
Các tư điền trước không đánh thuê, hây giờ ruộng hai mùa
phải nộp mỗi mẫu 3 tiền, ruộng một mùa 2 tiền.
- Phép dung thuê thân, mỗi xuất mỗi nám 1 quan 2 tiền.
Sinh đồ, lão hạng, hoàng đinh đóng thuê một nửa.
- Phép điệu lả phép bắt dân đóng tiền sưu dịch mỗi suất đinh
mỗi năm: hạ 6 tiền, đông 6 tiền. Quan thu tiền âV làm các việc,
không phiền đến dân nữa.
CÁC THỨ THUÊ KHÁC - Thời hây giờ, đánh thuê các thứ thố’
sản, thuê mỏ, thuê đò, thuê chợ... Khi đánh, khi không, không
nhất định.
- Thuế tuần ty: Các thuyền bè chỏ hàng hoá đi buôn bán
trong sông phải chịu thuế. Trong nước lập ra 23 sở tuần ty thu
thuế tre, gỗ, 10 phần nộp thuế một phần, tạp hoá 40 phần đánh
thuế một phần.
- Thuê muối: Năm 1721 Trịnh Giang đặt quan giám đường
đánh thuê muôi; 10 phần lấy 2 phần. Người buôn muôi cũng phải
lĩnh thẻ, phải mua muối của quan, rồi sau mới được mua của
những người làm muôi. Vì thuê nặng, giá muôi lên cao đến một
tiền một đấu. Dân oán. Năm 1732, Trịnh Giang phải bỏ không
đánh nữa. Năm 1746, Trịnhh Doanh lập lại phép đánh thuế; Chia
50 mẫu ruộng muôi làm một hếp, mỗi bếp phai nộp 40 hộc muôi
thuế, mồi hộc đánh giá 3 tiền.
- Thuế thổ sản : Nám 1724, Trịnh Cương định lệ đánh thuế thổ
sán như vàng, bạc, đồng, kẽm, sơn, diêm tiêu, than gỗ, than đá, tre,
gỗ, tơ lụa, quế, cá mắm, các đồ dùng như rưỢu, mật, dẩu và các đồ
thập vật như giấy, chiếu, vải, v.v... đều phải chịu thuế tòng lượng.
VIỆC KHAI THÁC CÁC HẦM Mỏ - Kế tục việc khai thác các mỏ
của các triều đại trước, trong các thế kỷ XVI đến XVIII, thủ công
nghiệp khai mỏ phát triến mạnh mẽ và đạt thành tựu đáng kể.
Nước ta thòi bấy giờ có các mỏ;
- Đồng ở Tụ Long (Tuyên Quang), Tống Ninh, Vụ Nông, Bảng
Mộc, Liêm Tuyền (Thái Nguyên), Trình Lang, Ngọc Uyển (Hưng
Hoá), Hoài Viễn (Lạng Sơn).
- Bạc ỏ Nam Xưởng, Long Sinh (Tuyên Quang).
- Vàng ở Kim Mã, Tam Lộng (Thái Nguyên).
- Kẽm ở Cân Minh (Thái Nguyên).
- Thiếc ở Vụ Nỗng.
344