Page 346 - Việt Sử Kỷ Yếu
P. 346
mùa. Dân chúng đói chết đến 1/3. Gặp có người phiêu híu cầm đầu
thì dân đói khắp nơi ùa theo, chông đôl chính quyền, cướp phá các
nhà giàu.
Năm 1596, nhiều toán lớn 700, 800 người, toán nhỏ một vài
trăm người đánh phá các nơi. Phạm Hồng, người Đại An (Nam
Định) xưng là Thiên Nam chiêu thảo đô nguyên SLiý, tụ tập hàng
vạn quân ỏ núi Đan Khê, huyện Yên Mô, dân Trường Yên, Lý
Nhân và tướng cũ nhà Mạc hưởng ứng. Tưống Bùi Văn Khuê hỢp
binh với thổ quan Nguyễn Thể dẹp được.
Năm 1597, Nguyễn Dương Minh, người Yên l’hong, xưng
vương hiệu Phúc Đức, mộ quân nôi dậy dánh phá các huyện lân
cận. Tướng Hoàng Đình Ai chỉ huy dốc sức đánh tan đưỢc.
Lại có Nguyễn Minh Trí tự xưng là Đại Đức, chiêm giữ vùng
Từ Liên. Không bao lâu cha con đều bị quân Trịnh bắt giết.
Năm 1598, còn có mấy đám khác nôi dậy xưng là Lâm Tuyền
hầu, Lễ quận công, An quôc công, Trung quận công ơ Hà Đông,
Sơn Tây, Hải Dương, không cầm cự được lâu dài.
Sang thế kỷ XVII, tình thình trong nước đã được ổn định. Các
chúa Trịnh Tùng, Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Căn biết lo việc
trị dân, lại nhờ có những tôi giỏi như í^hạm Công Trứ, Nguyễn
Công Hãng hết lòng phò tá, sửa sang nhiều việc, nước được yên.
Chỉ có tù trưởng họ Vũ làm phán, ngoài vụ con cháu họ Mạc còn
chôhg đổi. Nhưng sang thê kỷ XVIIĨ, Trịnh Cương xảy dựng chùa
chiền, cung điện, tổ chức những cuộc tuẩn du tôn kém. Trịnh Giang
tiến hành xây dựng nhiều công trình hoang phí hơn nữa trong khi
dân chúng đói khô luôn luôn, cho nên có những cuộc nổi dậy khắp
nơi, nhiều toán có quy mô rộng lớn.
Trịnh Giang đã tàn ngược, lại xa xỉ, thuê má ngày một cao,
sưu dịch ngày một nặng, lại là người hôn ám, nhu nhưỢc, hoang
dâm vô độ. Có lẩn bị sét đánh gần chết, nên sỢ sấm, sai đào hầm ở
dưới đất mà trú ấn. Việc chính trị để cho những hoạn thần là bọn
Hoàng Công Phu chuyên quyền làm bậy. Các quan phủ liêu
Nguyễn Quý cảnh, Nguyễn Công Thái, Vũ Công Tế bèn truất
Trịnh Giang mà lập em là Trịnh Doanh lên làm chúa để lo dẹp
yên các toán nổi dậy chông đôi.
ĐÁNH DẸP TÙ TKƯỞNG HỌ v ũ ở TUYÊN QUANG - Khi Mạc Đăng
Dung thoán vị, Gia quốc công Vũ Văn Mật (còn gọi là Uyên) không
phục, dấy quân giữ xứ Tuyên Quang (xưa gồm cá H<à Giang và
miền tả ngạn sông Hồng các hạt Lao Cai, Yên Bcái, Phú Thọ),
346