Page 329 - Việt Sử Kỷ Yếu
P. 329

quan lại cũ do triều đình cử vào từ trước và vẫn còn nộp thuê cho triều
       đình nhưng tách khỏi dần mọi quan hệ lệ thuộc họ Trịnh.
            Năm  1623, Trịnh Tùng mất,  Phúc Nguyên  muôn nhân dịp ra
       đánh  họ  Trịnh,  nhưng  vì  công  việc  sửa  soạn  chưa  xong  nên  sai
       người  ra  phúng  điếu,  gọi  là  cho  phải  nghĩa  hôn  nhân  với  nhau,
       cũng đế nhân thể xem xét tình ý người bắc ra thê nào.
             Bấy  giờ,  miên  nam  có  được  mây  bày  tôi  giỏi,  đều  là  người
       Thanh  Hoa,  không  phục  nhà  Trịnh  vào  giúp.  Nguyễn  Hữu  Dật,
       người  Tông  Sơn,  học  rộng  tài  cao,  lại  hùng  biện,  đánh  giặc  giỏi,
       văn võ kiêm toàn.  Đào  Duy Từ cũng người Tông Sơn, vì là con hát
       xướng,  không  được  đi  thi,  phẫn  chí  vào  nam  lập  công  danh,  đưỢc
       Trần  Đức  Hoà  gả  con  gái  cho và  dâng lên  chúa  Sãi.  ồng  lập  đồn
       Trường Dục và xây luỹ ở cửa  Nhật Lệ  (Quảng Bình),  tục gọi là luỹ
       Thầy.  Nguyễn  Hữu Tiến,  người  huyện  Ngọc Sơn, là tướng tài,  tinh
       thông võ  nghệ,  dùng binh  rất có  kỷ luật.  Những vị  này  giúp  chúa
       Nguyễn,  bày  mưu  định  kế,  luyện  tập  quân  lính,  xây  đắp  đồn  luỹ
       để chông nhau với quân họ Trịnh.
            Một khi các  đồn  luỹ  đã  được  kiên cố,  binh lương đã  đầy  đủ rồi,
       chúa Sãi mới ra mặt không thuần phục họ Trịnh nữa, không nộp thuế
       hàng  năm,  đuối  các  quan  lại  cũ  của  triều  đình  về bắc,  sai  tướng ra
       chiếm  giữ  đất  nam  Bô  Chính  ở  phía  nam  sông  Linh  Giang  (sông
       Gianh)  đê  làm  chỗ chông giữ.  Từ đó,  năm  1627,  Trịnh  Nguyễn  đánh
       nhau tai hại trong khoảng 45 năm ở Quảng Bình, Hà Tĩnh bây giờ.
             Các chúa Nguyễn là;
             -  Nguyển  Hoàng  -  Đoan  quận  công  1600  -  1613  tục  hiệu
       Chúa Tiên.
             -  Nguyễn  Phúc  Nguyên  -  Thuỵ  quận  công  1613  -  1635
       Chúa Sãi, con thứ sáu Nguyễn Hoàng.
             -  Nguyễn  Phúc  Lan  -  Nhân  quận  công  1635  -  1648,  chúa
       Thượng, con thứ chúa Sãi.
             -  Nguyến  Phúc  Tần  -  Dũng  quận  công  1648  -  1687  chúa
       Hiền, con chúa Thượng.
             -  Nguyển  Phúc  Trán  -  Hoàng  quốc  công  1687  -  1691  chúa
       Nghĩa, con chúa Hiền.
             -  Nguyến  Phúc  Chu  -  Tộ  quốc công  1691  -  1725  gọi  là  Quốc
       chúa, con chúa Nghĩa.
             - Nguyễn Phúc Chú - Đình quốc công 1725 -  1738 con Phúc Chu.
             -  Nguyến  Phúc  Khoát  -  Võ vương  1738  -  1765  xưng vương
       hiệu con Phúc Chú.

                                                                             329
   324   325   326   327   328   329   330   331   332   333   334