Page 137 - Việt Sử Kỷ Yếu
P. 137
Năm 1242, Thái Tông chia nước vùng trực trị làm 12 lộ, mỗi
lộ có chánh phó ari phủ sứ cai trị, dưới có đại, tiểu tư xã, mỗi viên
cai trị hoặc 2 xã, hoặc 3,4 Xcã. Mỗi xã có xã quan là chánh sử giám.
Xã bấy giò lớn lắm. Quan lại do triều đình bố dụng, có thăng,
giáng, thuyên chuyên. Miền trung du và vùng trại, từ Nghệ An trở
vào, đặt các phủ, châu. Phủ có tri phủ, châu có tào vận sứ trên các
đại tiếu tư xã. Các xã phải làm sổ hộ khẩu, đinh tịch.
12 lộ là: Thiên Trường, Long Hưng, Quốc Oai, Bắc Giang,
Hải Đông, Trường Yên, Kiến Xương, Hồng, Khoái, Thanh Hoa,
Hoàng Giang (nam Ninh Bình), Lạng Giang.
Kinh thành Thăng Long chia làm 61 phường.
Quan lại các phủ châu cũng do triều đình bổ dụng nhưng
dùng thường người địa phương, có tính cách nửa phong kiến, nửa
trực trị.
Các vùng rừng núi xa xôi vẫn do các tù trưởng cai trị, thổ quan
trị thô dân, tuy có đặt quan giám sát mà không chặt chẽ lắm.
VIỆC THUẾ MÁ - Người nước, nam giới, phân ra từng hạng: từ
18 tuổi là tiểu hoàng nam, từ 20 là đại hoàng nam. Từ 60 trở lên
là lão hạng. Bấy giờ, có đánh thuế thân, nhiều ít tuỳ theo sô" ruộng
đất có được. Ai không có ruộng đất được miễn.
Thuế ruộng đóng bằng thóc, mỗi mẫu 100 thăng.
Thuế muối phải đóng bằng tiền.
Các loại vải, lụa, hương yến tức và tôm cá, rau quả, đều phải
chịu thuê, tòng lượng.
Tiền tiôu bằng đồng. Vàng, bạc dùng trong nước thì phân
lạng đưỢc chính quyền đúc sẵn.
VIỆC KHẨn h o a n g - Thái Tông đặc biệt chăm lo các công việc
vệ nông, khai ngòi, đắp đập, lại dùng quân lính đóng đồn khai
thác đất hoang, gọi là đồn điền. Đặt chức đồn điền chánh, phó sứ
đôn đôc công việc mở mang và quản lý.
VIỆC ĐẮP đ ê - Miền bắc nước ta thượng du nhiều núi cao, mà ở
mạn trung châu nhiều sông ngòi, hàng năm đến mùa lụt nước ngàn,
nước lũ chảy về ngập cả đồng điền. Từ xa xưa, người ta đã đắp đê
chống lụt từng khu vực nhỏ. Dưới triều Lý, công việc đắp đê đã được
mơ rộng. Sang triều Trần thực hành quy mô rộng lớn. Thái Tông sai
các lộ đắp đê giữ nước sông ở hai bên bờ sông Cái (sông Hồng khoảng
từ ngã ba Hạc trở xuống), gọi là Đỉnh Nhĩ đê. Bấy giờ là năm 1248.
Đặt quan coi việc đê, gọi là hà đê chánh phó hai viên. Chỗ nào đắp vào
ruộng của dân thì nhà nước chiếu giá bồi thường cho người có ruộng.
137