Page 241 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 241

hết  sức  inan  rợ,  họ  bị  lừa  hay  bị  bát  cóc  và  có thể  bị  giết  hay  bị  ãn  thịt
        nữa, vì  một  hiểu  lầm  nào đó từ xưa thì  họ cũng đành chịu  như gặp được
        dịp may mà 2Ìải  thoát và trả xong nợ của một kiếp tu.  Họ  không  nhũTig
        không  sợ chết  mà còn đi  tim cái  chết  là  khác  nữa.  Có  khi  nhờ binh  tĩnh
        không sợ chết mà họ lại được tha và được cả bộ lạc kính  phục. Thì  đó lại
        là chuyên nguy thành an, cũng là một duyên may nữa.
             Câu chuyện ke trong Cao Tăng Truyện về  ngài  Ma Ha Kỳ  Vực qua
        Phù  Nam,  Lâm  Ap,  Giao  Châu  và  Quảng  Châu,  Lạc  Dương,  dọc  đường
        thường  làm phép lạ như lái  đò thấy ngài  rách  rưới  không chịu chở thì đò
        tới  bên  kia  sông đã thấy  ngài  ở dó rồi  sợ là có thêm  thắt.  Người  tu  Phật
        không phái là người có pháp thuật biến hoá thần thồng. Và ví thử có cũng
        không cần phái thi thố bừa bãi với chú lái đò để làm gì.
             Phương tiện  để  lấy  cám  tình của đỏng  dao quần  chúng  nhân  dân  ở
        thời  xưa  là  chữa  bệnh,  bói  toán,  xem  tướng  số,  cho  bùa  chú  cầu  tài  và
        cũng  có  khi  là  thuật  thòi  miên,  thần  giao  cách  cám.  Người  Ân  đã  nổi
        tiếng về những cái tài ấy.  Các nhà tu Ằi  trước mắt  thiên hạ hẳn còn phải
        tài hơn. Cho nên thường các nhà tu này đến đâu cũng dược dàn chúng sẩn
        sàng trọng vọng.

        ĐẠO PHẬT ĐẾN (ỈIAO CHÂU VÀO THỜI NÀO?
              Như đã  xét  ở  trên,  thì  quá  là  khó,  cái  việc  chỉ  đích  đạo  Phật  đến
        Giao Châu vào thời  khoảng nào.  Không the căn cứ vào việc  một vài  nhà
        tu có qua Giao Châu  mà  sách  sử còn chép  lại  làm  dấu  rằng  dạo  Phật  du
        nhập ngày ấy.
              Chính G.Coedès cũng dtã viết:  “Ả7;ô/?g thể coi người Án dến bán đào
        TniìUị Ân  và  nhĩừìíị quần  ctảo  ở Nam  Hủi  như người cháu  Au  cíến  châu
        Mỹ,  vì họ không phải lâ kc’ lạ tỉũ khúm phú ra  những (lất mới trong khu
        vực ấy.  ớ  một thời khoảng lịch  sử nào đó,  cần  thử xác  cĩịnlì  và  tiếp sau
        những hiến  cố mả  nĩịuúi  ta  có  thể nhận  ra dược dã có  hảng doãn  dông
        dào nhữní> nhủ buôn  và nhữm> người di cir ồ ạt tới khu  vực mà trước chỉ
        có  ít  n^ười  Ic  té đến  thôi.  Để kết  quả mới  lù  sự thành  lập  những  vưưng
        quốc  theo  kiểu An  Độ,  với những níịhệ  thuật,  tập quán  tôn  giáo Ân  Độ,
        cùm’  việc  dùng  chữ  Phạm  làm  chữ  thiêng  liêm’.  Những  người  An  dã
        khỏm> qặp nhữm> bộ lạc dã man, không một chút văn hoá nào, mù trái lại
        đã íịập nluĩm’ mịười có phần  nào  văn  minh,'không phái  lù  không  na  ná
        với văn minh Ân Độ tiên Aryen. Sự dễ dáng vù nhanh chóng cho người Ân
        truyền  bá  văn  minh  của  họ  có  thổ giải  thích  một  phần  nào  bằng  việc
        nyười dân  dịa phươm’  nhìn  qua phong  tục  tín  ngưỡng của  họ  thấy  dưới
        nước sơn Ân Độ ấy có một căn cốt chung cho cd châu Á.

        252
   236   237   238   239   240   241   242   243   244   245   246