Page 242 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 242

'"'Bài thế, íỉấv khôiĩí> pliíỉi là sự tiếp xúc  í>iữa inỊưtyi xa lạ hav sự tiếp
    xúc cĩầit  tiâiĩ.  Nếu sự Ân Độ hoá cúc nước m>oại Ân có  vc là clicn  ra  vào
    khoảniỊ dầu k\ mịuvên, như một sự kiện mới mẻ, thì khôiiíỉ phải nỊịười An
    lúc ấv mới xuất nịỊoại lần dầu, mù chính là lúc ủ'v họ tới dônịị ddo ồn ào
    lum, lại có mam> theo nlìữm’ phần tữ trí thức có thếtruyên hú tôn giáo và
    nghệ thuật Án hằng tiêhíỉ Phạm".
          Thật  là một nhận xét xác đáng để chứng minh rằng đạo Phật đã vào
    Giao Chíiu không phái vào thế kỷ thứ 111 mà còn trước nữa rất nhiều.
          Sách  Cao Tăng Truvện  có chép rằng ngài  Ma  Ha  Kỳ  Vực  qua  Phù
    Nam, Lâm Âp tới Giao Châu rồi đi  Quảng Châu, Lạc  Dương vào cuối thế
    kỷ thứ III. hay Tăng Hội, người thuộc gia đình gốc Sogdianc đến cư ngụ ở
    Ân đã nhiều  đời  rồi  theo song thân tới Giao Châu định cư làm  nghề buôn
    bán.  Khi  song thân mất, ổng vào chùa tu  hành và dịch các kinh  sách chữ
    Phạm ra chữ Hán. ông mất ở Trung Hoa năm 280.
          Nhưng  những lài  liệu  Iicày chỉ chứng tỏ  rằng dạo Phật  dã có ở Giao
    Cháu từ trước khi có vcl chân của các nhà tu ấy.
          Bơi  trước dấy năm  187, khi  Sĩ Nhiếp làm thái thú dất Giao Châu thì
    Viên  Huy  dã có gửi  thư về  cho Tuân  Quốc  bên  Tàu  năm  207  kể về  anh
    em Sĩ Nhiếp như sau;
          Nhiếp huynh  dệ.  tịnh  vi liệt c/uận,  lìùní> trưởnv,  nhất châu,  thiên an
    tại  vạn  lý,  uy tòn  vô  rhưựní’, xuất nhập minh  chung khánh  hị cụ  uv nghi
    tiêu  cổ xuy  .xa  /?v  mã  dạo.  Hồ  nhân  íịiáp  cấu  phần  hương,  tììién  gid
    ihiunu’ hữu so' thập.
          (Ánh em Sĩ Nhiếp dêu chia ra các quận, mỗi người hùng cú' một châu,
    rộní> dến  vạn dặm, uy nghiênì tôn kính khỏnq có ai hơn, khi ra vào chuông
    khánh  vanq lừinỊ, diì mọi nghi  vệ thổi .sáo dánh  trống. Xe ngựa dầ\’ dưò'ng.
    Nhữm^ nqiíời Hồ theo hai hên .V(' dốt hu'o'mị thif()’ní> có dến vài mưo'i).
          Danh  từ người  Hồ  theo Trần  Văn  Giáp trong  sách  Le  Bouddhisme
    en Annam  là liếng của người  Tàu chí  các rợ miền  giữa châu  Á và  Ân  Độ
    từ dầu kỷ nguyên.
          Như vậy,  người  Hồ  (nghĩa  là  người  Ân Độ) dã ở Giao Châu  ít  nhất
    lừ giữa thê' kỷ thứ II  thì  mới  dặt  xong nền tang tôn  giáo và những  liên hệ
    với chính quyền.
          Hồi  giữa thế kỷ thứ hai  là hồi  sau  triều  Kaniska  (78  -  123) các con
    của  Đại  Đế không  dương  nổi  nghiệp  lớn.  trong  nước  loạn  lạc  lung  tung.
    Hổi ấy cũng là hồi nhà Hán  bên Tcàu tàn tạ với những vị vua yếu duối, chỉ
    lo  hưởng  những  thú  vui  vật  chất  trong  cung  câm  còn  việc  triều  dinh  thì
    phó  mặc các  hoạn quan  lộng quyền  khiến  gày thành  loạn  Khán  Vàng và
    loạn Tam Quốc.

                                                                           253
   237   238   239   240   241   242   243   244   245   246   247