Page 233 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 233

Kinh  điển  được  chép  bàns  chữ  Phạm  (Sanskrit).  Trước  đó.  nhữn«
        kinh điển chép bằns chép Pali, tàntz trữ ở Tích Lan.
             Kinh điển chính thức thừa nhận điều mà cônR chúns phật tử đã làm
        Irons thực tế là tôn thò' Phật  là người Trời  (Être divin)  và  tin tưởng  là có
        rất  nhiều  vị  Phật  của quá  khứ và  vị  lai  đã giúp  khai  thông  tuệ  nhãn  cho
        thái  tử Tất Đạt Đa sớm ngộ đạo.  Đó  là  bước đầu  đặt  nền  móng  cho  việc
        thờ Tam thân Phật tổ.
             Nhiìnc  quan  niệm  chính  thống  cũ  cho  rằng  cá  nhân  gắng  công  tu
        theo  gương  đức  Phật  đến  chứng  quá  A  La  Hán  đcã  kể  là  dến  đích  rồi.
        Nhưng kê từ đây thì người ta xác định:  đôn đích ấy mới  là dến cảnh  giới
        của vô thuỷ vô minh (hay là vỏ sắc giới), chưa thê’ kể là chứng nhập Chân
        Như tuyệt đối, vượt ngoài tam giới  là Niết Bcàn được.
             Sự chứng  nhập này  phai  là  tự mình  thân chứng  bởi  canh  giới  Chân
        Như tuyệt dối chẳng phải  là chỗ ngôn ngữ văn lự có thổ bày tỏ ra dược'".
        Nhưng Tam thân Phật  với  Quan  Âm  Bồ Tát cũng có thể dộ cho tha nhân
        ngộ  dạo,  theo  Bồ  Tát  hạnh  là  hạnh  tu  của  những  vị  dã  dến  bến  Giác
        nhưng nguyện ở lại trần gian để cứu vớt chúng sinh dau khổ.
             Đó là những nét đại  cương của phái dại thừa (Mâhâyana) đối  lại  với
        chủ trương của phái tiểu thừa (Hinâyâna).
              Đại  thừa  với  chùa  thờ  Phật,  với  bánh  xe  pháp  luân,  trầm  hương,
        chuổng mỡ. kinh kệ v.v...  không  phải  là một hình thức đại  chúng hoá thô
        thiên  của  đạo  Phật.  Mà  do  Long  Thụ  Bổ  Tát  (Nâgârjuna)  sáng  lập.  đại
        thừa có  cãn  ban  lý  thuyết  cao thám  của  “một trong  nhũ'ng  nhà  siêu  hình
        học  tinh  vi  nhất  nicà  loài  người  có  thể  sán  sinh  ra  dược”  (run  des
        métaphysiciens les plus subtds que la race humaine ait produits)'"'.


        TÓM  LAI
             Đến  chặng  tiến  hoá  này,  chặng  tiến  hoá  sau  công  nguyên  nicà  dạo
        Phật  truyén  vào  Trung  Quốc,  Nam  Dương,  Triều  Tiên,  Nhật  Bản,  Thái
        Lan, Giao Châu (Việt Nam), đạo Phật dcã mang theo nó nhCrng sác thái  vô
        cùng phong phú với một tinh thán hết sức tinh tế.


          Điêm  này dườim như có phần nào do sự kích dộna của hệ thốna Ui' tươne Iriếl học
        Hy  Lạp mà kết  linh:  “ Mục dích của Iriếl  học  là cầu Iri  kiến, mục dích của Phật  pháp
        là  lìa tri  kích.  Việc  làm cứa triết học  là lại  nơi  lời  nói mà ciia Phật  Pháp là tại  ncá  lìa
        lời  nói.  Triết  học dùna  Iv  trí  làm  con dườna di  lới  chân  lý.  còn  Phật  pháp lai  cho  là
        lý  In'  làm  che  láp con  dường  di  dến  chân  lý.  nên  dặl  lên  cho  nó  là “ Sơ tri  chướng”
        và bài  xích nó là vọng tướng.
          H.Zimmcr. Lcs Phiìosophics (le I 'hìdc , p. 401.  Payot  .  rvris,  1953.
        244
   228   229   230   231   232   233   234   235   236   237   238