Page 303 - Việt Nam Văn Hoá Sử Cương
P. 303

thì  nưốc  phân  dã  về vì  sao  ấy  tất có  tai  nạn,  đó  là  môl
    đầu  của thuật chiêm  tinh.  Đến  đòi  Hán,  có  lịch  thái  sơ
    theo  phép  đời  Hạ,  lấy  tháng Dần  làm  tháng  giêng.  Đòi
    Tấn  phát  minh  phép  tuế  sai  khiến  lịch  pháp  lại  tinh
    hơn  trước.  Đời  Minh  thấy  phép  lịch  tây  suy  toán  nhật
    thực rất đúng bèn bỏ lịch cũ mà dùng lịch mới, rồi từ đó
    sang  đời  Thanh,  thường  thường  diễn  ra  cảnh  tượng
    tương tranh,  nhưng tốỉ hậu lịch cũ phải châm chước với
    lịch mới mà thành một thứ lịch bán âm bán dương.
       Nước ta từ triều Lê sang triều Nguyễn vẫn dùng theo
    lịch pháp của Minh Thanh, ở  kinh đô cũng có tòa Khâm
    Thiên  giám như ở Trung Quốc  để coi việc  làm lịch.  Các
    quan  Khâm  thiên  giám  ở  nước  ta  chỉ  biết  giở  lịch  thư
    của  Tàu  cứ  theo  thành  thức  mà  tính  ngày  tháng,  chứ
    không  cần  phải  dùng  nghi  khí  để  chiêm  nghiệm  thiên
    thể.  Mỗi năm  ngày  mồng một tháng chạp vua ngự  điện
    khai  trào  để  các  quan  Khâm  thiên  giám  đem  tiến hiệp
    kỷ lịch,  rồi khâm  mạng vua mà ban đi các nơi,  lễ ấy gọi
    là Ban sóc.
       Trong phép làm lịch của Tàu và của ta, ngoài sự định
    năm,  tháng,  sóc vọng, thì tiết tháng nhuận,  lại còn theo
    can chi và nhị thập bát tú phối  hỢp với  âm  dương,  ngũ
    hành  mà  định  ngày  xấu  tốt  khắc  hỢp  để  cho  người  ta
    chọn ngày mà làm việc. Nguyên đời Đường Ngu ở Trung
    Quốc  đã  có  lệ  chọn  ngày,  nhưng  người  ta  chỉ  tùy  việc
    trong nhà thì chọn ngày nhu^^’ mà việc ở ngoài thì chọn
    ngày  cương'^\  về  sau  các  nhà  âm  dương  th u ật  sô" bày
    thêm nhiều điều phiền toái, bắt người ta phải theo từng


    *'* Tức những ngày âm can: ất, đinh, kỷ, tân, quý.
      Tức những ngày dương can; giáp, bính, mậu, canh, nhâm.
                                                                305
   298   299   300   301   302   303   304   305   306   307   308