Page 296 - Việt Nam Văn Hoá Sử Cương
P. 296

Từ đời Quang Hưng,  nhạc ở triều  miếu ít dùng,  quan
     Thái  thường  thì  thuyên  chuyển  đi  làm  chức  khác,  cho
     nên chỉ tục nhạc ở Giáo phường là thịnh hành,  phàm tế
     giao  miếu  và  lễ  triều  hạ,  cùng  trong  dân  gian  có  vào
     đám  tế   thần,  đều  dùng  nhạc  ấy  cả.  Bởi  vậy  mà  nhạc
     giáo  phường  mỗi  ngày  mỗi  biến  hóa,  so  vói  các  xoang
     điệu đòi Hồng Đức chép ở bộ Lễ lần lần khác xa. Vì việc
     nhạc  không  có  quan  trông  nom  nữa,  Nhà  nước  không
     chăm đến nữa, cho nên những người muốn học âm nhạc
     bấy giờ chỉ có thể theo học ở bọn giáo phường thôi.
        Những  nhạc  khí  ở  chốn  Giáo  phường  thì  có  một  cái
     nhịp  dài bằng  tre,  do  một  mụ  già  gõ  nhịp,  một  cái  ống
     sáo,  một cái quyển  nhị,  một cái  trống cơm,  một cái  đàn
     đáy,  mỗi người kép cầm một cái, còn đào thì cầm một cái
     phách,  một cái sinh tiền,  hoặc  một cái trốhg  mảnh  một
     m ặt  dùng khi  vừa hát vừa  múa.  Khi ca công,  vào hát ở
     nhà  quan,  gọi là hát cửa  quyền,  thì  hát  giọng  dịu  dàng
     thanh  nhã  hơn  giọng  hát  ở  giáo  phường,  thường  dùng
      một cái trúc sinh đánh nhịp, tục gọi là đàn khô,  một cái
      đàn cầm căng dây thép,  một cái  đàn chín  dây, bảy  dây,
     hay mười sáu dây, tục gọi là đàn tranh.
        Về  âm  luật  thì  nhạc  ta  cũng  theo  nhạc  Tàu  mà  đặt
      năm  cung bảy  thanh,  cũng  gần vói bảy  tiếng  trong  âm
      giai của tây nhạc.
        Triều Lê càng suy, quan nhạc càng suy dần, còn nhạc
      của  giáo  phường  thì  người  thức  giả  chê  là  tục  nhạc,
      không thèm học đến, bởi vậy nên lần lần âm nhạc thành
      một  chuyên  nghệ  của  bọn  giáo  phường  dùng  để  sinh
      nhai  mà  m ất  hết  tính  chất  mỹ  thuật.  Từ  đó  âm  nhạc
     càng ngày càng suy, đến ngày nay thì nhạc giáo phường


      298
   291   292   293   294   295   296   297   298   299   300   301