Page 277 - Việt Nam Văn Hoá Sử Cương
P. 277
Nguyễn Đức Đạt có sách Khảo cổ ức thuyết, về sử chí
thì có Lịch triều hiến chương của Phạm Huy Chú, Gia
Định thông chí của Trịnh Hoài Đức, Đại nam nhất
thông chí của Cao Xuân Dục.
Tuy rằng tiền nhân ta ở đòi trước chỉ chăm học sách
chữ hán, viết văn chữ hán, và chỉ dùng việt ngữ để làm
ván chương du hý, thế mà xem các tác phẩm bằng bán
tự kê ở trên thì ta chỉ thấy những thư văn tạp ký cùng
sử ký biên niên, chứ tuyệt nhiên không có những sách
về học thuật tư tưởng và tiểu thuyết luận thuyết như ở
Trung Hoa. Đến như việt ngữ thì các nhà nho thường
khinh là "nôm na mách qué" nên chỉ khi nào làm văn
chơi đùa tiêu khiển thì mới dùng đến, cho nên Việt văn
không thịnh đạt cũng không lạ gì.
Việt văn được nhà nho để ý là bắt đầu từ Hàn
Thuyên đòi Trần Nhân Tôn, dùng chữ nôm làm văn tế
ngạc ngư và đặt ra Hàn Luật để làm thơ nôm; đồng thòi
một nhà nho khác là Nguyễn Sĩ Cô" cũng dùng chữ nôm
để làm phú, rồi các nhân sĩ trong nưốc bắt chước làm
văn nôm càng ngày càng nhiêa. Song văn chương việt
ngữ ở đời Trần hiện chỉ truyền lại có mấy bài thơ về
Huyền Trân Công Chúa và bài thơ "bán than" của Trần
Khánh Dư thôi.
Sang đòi Lê thì tác phẩm về việt văn có nhiều hơn,
nhưng đại khái đều là thi ca cả. Những văn có tiếng
nhất là Lê Thánh Tôn thi tập, Hồng Đức quốc âm thi
tập, Bạch vân thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm đầy tư
tưởng ẩn dật nhàn tản, Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị
Điểm (dịch hán văn của Đặng Trần Côn) là một lời than
tiêu tao thanh nhã, Cung oán ngâm của Nguyễn Lê
279