Page 249 - Việt Nam Văn Hoá Sử Cương
P. 249

con đường giải thoát, cho nên đối vói mọi sự ở đòi đều có
    thái độ tiêu cực. Dẫu rằng có dạy người ta phải xuất lực
    tự  cường,  nhưng  cũng  chẳng  qua  tự  cường  xuất  lực  để
     nhẫn  nại,  để  diệt  dục,  để  mau  đến  cảnh  giải  thoát  mà
    thôi.
       Sau  khi  Thích  ca  viên  tịch  rồi  thì  cao  đệ  là  Ma  Ha
    •Già  diệp hội  đệ tử hơn năm  trăm   người ở thành Vương
    Xá nước Ma Yết Đà, biên soạn  kinh  điển chia làm  3 bộ:
     kinh  luật,  luận,  gọi  là  tam   tạng.  Sau  được  vua  A  Dục
     (Asoka)  nước  ấy  hết  sức  bảo  hộ,  Phật  giáo  bèn  thịnh
     hành  ở  khắp  cõi  Ân  Độ.  Người  những  chủng  tính
     (castes)  thường bị  người  Bà  La  Môn  áp  chế qui  y  Phật
     giáo  rất  đông.  Nhưng  đến  khi  nước  Ma Yết  Đà  suy  thì
     thê  lực  Phật  giáo  cũng  kém.  Sau  được  nước  Đại  Nhục
     chi nôi lên ỏ Trung Á, vua là Già Nhị sắc già quy y Phật
     giáo, các giáo đồ nhà phật mới kết tập ở nước ấy,  nhưng
     vì  các  giáo  đồ  ở  phương  nam  Ân  Độ  không  dự hội,  nên
     Phật  giáo  bèn  nhân  th ế mà  chia  ra  hai  phái:  nam  tôn
     lấy  nước  Sư  tử  (nay  là  Tích  Lan  Ceylan)  làm  đại  bản
     doanh,  sau  truyền  sang  các  nước  Diến  Điện,  Xiêm  La,
     Cao  Man cùng  Nam  Dương  quần  đảo;  bắc  tôn  lấy  nước
     Đại  Nhục  chi  làm  đại  bản  doanh,  sau  truyền  sang
     Trung Quốc cùng các  nước Đông Á.  Hiện nay Phật giáo
     của nam tôn theo giáo lý tiểu  thừa, còn bắc tôn thì theo
     giáo  lý đại  thừa.  Phật  giáo ở nước  ta  xưa  nay vẫn theo
     đại thừa,  vậy ta  cũng nên  biết  qua  đại  khái  giáo lý  đại
     thừa là thê nào.
        "Về  tôn  giáo  thì  đại  thừa  thờ  cái  toàn  thể  là  gồm  cả
     vật  chất  và  tinh  thần.  Toàn  thể  ấy  bất  động  thì  hồn
     nhiên như không, nhất động thì sinh ra vạn vật, nhưng


                                                                251
   244   245   246   247   248   249   250   251   252   253   254