Page 240 - Việt Nam Văn Hoá Sử Cương
P. 240

nhương thì nhà nho vắng vẻ; đến đòi Hồng Đức mở rộng
       khoa mục thì kẻ sĩ xô về hư văn;  đời Đoan Khánh trở đi
       thì  sĩ  tập  bại  quá  lắm"‘^’.  Vua  Minh  Mệnh  từng  nói  về
       việc  học  cử  nghiệp  rằng:  "Lâu  nay  khoa  cử  làm  cho
       người ta  sai lầm. Ván chương vốh không có  qui củ nhất
       định, mà nay những người làm văn cử nghiệp chỉ câu nệ
       hủ sáo, khoe khoang lẫn nhau, biệt lập mỗi nhà một lôi,
       nhân phẩm cao hay thấp do tự đó. Học như thế thì trách
       nào  nhân tài chẳng mỗi ngày  một  kém             Nay  ta  cứ
       xem  mấy  lời  ấy  cũng  đủ  tưởng  tượng  được  tình  trạng
       suy  đốn  của  nho  học  ở  đòi  Lê,  Nguyễn,  ó   thời  đại  nho
       học  độc  tôn  mà  nho  học  lại  ở  vào  cảnh  huống  hư  hèn
       như vậy,  nguyên nhân chủ yếu chỉ vì chê  độ khoa cử và
       học  thuyết  Tống  nho  làm  cho  nó  mất  hết  sinh  khí  mà
       phải còi lần.
          Nho  học  đương  suy  thì  bỗng  gặp  tình  thế phải  tiếp
       xúc với âu hóa. 0  đòi trước tuy nó không phát triển được
       đến trình độ rực rỡ,  nhưng nho học vẫn thích hỢp trạng
       thái  xã hội nông nghiệp  kinh tế và  trạng thái  chính  trị
       bê quan tỏa cảng.  Đến khi nước ta phải tiếp xúc với các
       dân tộc tây phương,  trạng thái chính trị và xã hội bỗng
       biến  thiên  nhanh  chóng,  nho  học  không  thích  hỢp  nữa
       mà phải nhường chỗ cho các học thuật mới; bởi vậy Nam
       Việt  từ  khi  thành  thuộc  địa  thì  bỏ  khoa  cử  mà  theo
       pháp học, còn ở Bắc Việt và Trung Việt thì năm  1915 và
       năm  1918 chế độ khoa cử cũng cáo chung để nhường chỗ
       cho  chế  độ  học  đường  theo  tây  học.  Hiện  nay  những
       phần tử tân học chỉ  đua nhau  nghiên  cứu  và  nghị lưận


         Nguyễn Trọng Thuật, điều đình cái án quốc học (Nam Phong sô' 167).
         Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim.
       242
   235   236   237   238   239   240   241   242   243   244   245