Page 151 - Việt Nam Văn Hoá Sử Cương
P. 151
bậc, từ 1 năm đến 3 năm, nhưng bậc nào cũng có kèm
thêm tội trượng nữa (người bị tội đồ phải làm khổ sai,
do thân thích và xã thôn cấp dưỡng; tội lưu có ba bậc,
mỗi bậc kèm thêm tội trượng: lưu hai nghìn, hai nghìn
rưỡi và ba nghìn dặm (tội lưu phải chịu chung thân,
người có tội phải đem theo vỢ con để khai khẩn đất
hoang ở chỗ bị đầy, và được ăn ở tự do; lại có khi được
cấp ngưu canh điền khO; tội tử có hai bậc, giảo là thắt
cổ và trảm là chém đầu (chém đầu mà bêu là nặng và
nhục hơn cả). Tội giảo và tội tử lại có lệ giam hậu, cũng
hơi giống như lệ án treo của pháp luật tây phương.
Những kẻ bị tội giảo giam hậu hay trảm giam hậu thì
trưóc khi hành hình còn được giam để chờ đến kỳ thu
thẩm. Mỗi năm, nội trong tháng năm, các quan tỉnh
phải xét nghĩ tình thực các án tiết ấy xem đáng xử
quyết hay đáng giam hậu mà tư về bộ, rồi trong tháng
tám Hình Bộ phải thẩm nghĩ để tâu vua và xin họp hội
đồng để đoán nên hoãn quyết thê nào. Những án được
hoãn thì được cải sang tội đồ hay tội sung quân, phải
suốt đòi làm khổ dịch, hay làm lính tại các đồn ải ỏ nơi
biên thuỳ xa và độc.
Về tội nhẹ thì kẻ giàu có, có thể dùng tiền mà chuộc
được (lệ nạp thục).
Về thẩm cấp thì ở triều Nguyễn các quan phủ huyện
là quan tòa sơ cấp; trước khi chiếu luật định tội thì phải
xử hòa giải. Quan Án sát và quan Bô" Chánh là quan tòa
đệ nhị cấp hay là phúc thẩm, một người xem việc hình,
một người xem về hộ. Sự phán quyết của quan tỉnh là
nhất định, nhưng về án đồ trở lên thì phải tư về bộ và
tâu vua. Người nào không phục cách phân xử của quan
153