Page 155 - Việt Nam Văn Hoá Sử Cương
P. 155
thê nào. Có lẽ quân đồn trú ấy cũng không đông cho nên
khi ngưòi bản xứ Trưng Trắc, Triệu Âu, Lý Bôn, Mai
Thúc Loan khởi nghĩa thì quan ấy thua ngay, phải chờ
quân đội ở Trung Quôc kéo sang các quan Tàu mới phản
công được.
Nhà Đinh lập quốc, Đinh Tiên Hoàng bắt chước binh
chê của Trung Quốc đặt thập đạo quân, mỗi đạo 10
quân, mỗi quân 10 lữ, mỗi lữ 10 tốt, mỗi tốt 10 ngũ, mỗi
ngũ 10 người. Đó là qui chế dự định, chứ sự thực thì bấy
giò dân sô" đương ít không có thể đặt đủ 10 đạo gồm
1.000.000 người được. Triều Lê Đại Hành thì đặt túc vệ
binh gọi là thân quân, định quân ngũ và chia tướng
hiệu làm hai ban. Triều Lý thì binh chế đại lược bắt
chước phép phủ vệ nhà Đường và phép cấm sương nhà
Tốhg; cấm binh 10 quân mỗi quân 200 người làm quân
hộ vệ kinh thành; sương binh 9 quân, khi có việc thì
triệu tập để kiểm điểm, xong rồi lại cho về nhà làm
ruộng. Lại đặt thủy quân giữ vài trăm chiến thuyền và
lục quân chia làm bổn bộ (tả, hữu, tiền, hậu) lấy quân
kỵ xạ làm ngạch thứ nhất.
Binh chế triều Trần, ở kinh đô thì đặt cấm quân tức
là quân túc vệ, ngoài thì đặt quân các lộ. Khi nhà nưóc
hữu sự thì phàm trai tráng ai cũng phải đi lính, đại
khái bình thời thì ở nhà làm ruộng làm nghề mà khi
hữu nạn thì trưng triệu ra hết, nhờ thế mà binh nhiều
phí ít, cho nên binh lực đời ấy rất thịnh, người ta
thường gọi là chế độ bách tính dai binh.
Nhà Hồ thì đặt nam bắc quân chia ra 12 vệ, đông tây
quân chia ra 8 vệ, mỗi vệ 18 đội, mỗi đội 18 người, do
Đại tưóng quân tổng quản; lại đặt Thủy binh đô tướng,
157