Page 148 - Việt Nam Văn Hoá Sử Cương
P. 148
vỢ nhũng nhiễu; cấm không cho tậu ruộng vườn nhà cửa
ở trong trị hạt, vì sỢ quan hiếp bách kẻ trị hạ để mua rẻ;
cấm không được tư giao vói đàn bà con gái trị hạt để
đừng treo gương xấu cho nhân dân; cấm quan lại hồi
hưu không được lui tới cửa công để thỉnh thác cầu cạnh.
Ngoài ra nhiều điều trừng trị các quan hối lộ và nịch
chức, nếu thi hành cho nghiêm mật thì cũng có thể
tránh được những tệ tham quan ô lại mà ta thường thấy
làm cực khổ nhân dân.
Pháp chế
ở thời đại phong kiến tổ tiên ta chưa có pháp luật
thành ván, sự cư xử và giao thiệp của người ta ở xã hội
chỉ căn cứ vào phong tục. Đến thòi đại Bắc thuộc thì các
quan Tàu cai trị người nước ta, hẳn là vừa theo phong
tục bản xứ, vừa theo pháp luật của Trung Quốc bấy giò.
Đến đòi Đinh nưốc ta độc lập, Đinh Tiên Hoàng theo
chế độ lễ nghi của Trung Quốc để sắp đặt quốc chính,
nhưng về pháp chế thì chỉ thấy sử chép rằng bấy giò có
hình pháp rất nghiêm khắc, như đặt vạc dầu và nuôi hổ
báo để xử tội, đó là những hình đặc biệt để uy phục
nhân dân trong buổi dẹp loạn mới yên. Đến đòi Lý Thái
Tôn vua sai soạn ba quyển Hình Thư định các bậc hình
phạt, các cách tra hỏi, và đặt lệ cho những người già
người trẻ trừ khi phạm tội thập ác^^^ thì được lấy tiền
Thập ác là mười tội lón. Mưu bạn (mưu làm hại xã tắc): mưu đại nghịch
(phá huỷ lăng miếu); mưu phản (theo địch mà phản quốc); ác nghịch (đánh
hay mưu giết cha mẹ ông bà...); bất đạo (giết ba người vô tội trong một họ,
hay cắt da thịt người sống để làm thuốc độc hoặc bùa...); đại bất kính (thất
kính đôi với vua, như ăn trộm đồ thờ ỏ lăng miếu đồ xa giá của vua...); bất
150