Page 251 - Vấn Đề Bảo Vệ Quyền Sở Hửu Trí Tuệ
P. 251
Chương 3: Thương hiệu ... thương mại của các doanh nghiệp 251
Đây là phương pháp cổ điển trong việc đánh giá tất cả những khoản
đầu tư cho dù là vô hình hay hữu hình. Những nhà phân tích tính toán số
thu nhập hàng năm được dự kiến quy vào cho thương hiệu trong khoảng
thời gian từ 5 đến 10 năm. Tỷ lệ chiết khấu được sử dụng là chi phí đầu tư
bình quân có tác động nếu cần được tăng thêm để tính những rủi ro phát
sinh từ một thương hiệu yếu (nghĩa là giảm bớt tác động của những lợi
nhuận sau này trong việc tính giá). Ngoài giai đoạn này, giá trị thặng dư
được tính bằng cách giả định thu nhập luôn luôn phát triển ở một tỷ lệ vô
cực không đổi.
Công thức sau được áp dụng:
N
Giá trị của thương hiệu = = ∑ RB i + NV
i1 (1 + = r) i (1 + r) N
Trong đó:
RB: Lợi nhuận dự kiến trong năm thứ i quy vào thương hiệu;
R: Tỷ lệ chiết khấu;
RB RB
Giá trị còn lại NV sau năm hoặc N = n hoặc n
r r − g
Với g là tỷ lệ tăng lợi nhuận.
Nhiều chuyên gia đã xác định được hạn chế của phương pháp này để
có thể phòng tránh nó, đó là tính không chắc chắn của việc chọn lựa
khoảng thời gian, tỷ lệ chiết khấu và dự kiến những dòng lưu kim. Hơn
nữa, đối với những dự báo về dòng lưu kim có thể thất bại do không thể
lượng hóa được vào mô hình yếu tố đối thủ cạnh tranh sẽ đưa ra một sản
phẩm với chất lượng cao hơn và với mức giá thấp hơn trong tương lai.
Chắc chắn rằng yếu tố này không được xác định vào trong mô hình tính
toán. Trong bất kỳ trường hợp nào, tỷ lệ chiết khấu phải tính đến những
rủi ro được lường trước thông qua những dự báo và phân tích về điểm
mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của thương hiệu trên cơ sở những
tiêu chuẩn được xác định rõ ràng.
3.2.3.2.2 Phương pháp bội số
Trường phái định giá ở Anh cho rằng, giá trị thương hiệu chỉ nên dựa
trên những gì cho là chắc chắn, tức là thu nhập ròng của thương hiệu vào