Page 36 - Truy Tìm Căn Nguyên Tăng Trường
P. 36
trong hoàn cảnh sau các cuộc khủng hoảng kinh tế vĩ mô. Báo cáo của WB năm 1995
đã thông báo với các nước Mỹ La tinh rằng “tăng tích lũy và đầu tư lên 8% GDP sẽ
nâng mức tăng trưởng hàng năm lên khoảng 2%”. Báo cáo của Ngân hàng liên Mỹ
năm 1995 đã lo ngại về việc “Mỹ La tinh đứng trước thách thức phải giữ vững mức
đầu tư cần thiết để tiếp tục giữ vững mức tăng trưởng sản lượng”. Báo cáo của WB về
Thái Lan năm 2000 đã khẳng định với đất nước đang là tâm điểm của cuộc khủng
hoảng Đông Á này như “đầu tư tư nhân là chìa khóa để tiếp tục tăng trưởng”.
Chúng tôi, các nhà kinh tế IFI, đã sử dụng phương pháp bù phần thiếu hụt tài chính để
đào tạo các cán bộ phát triển ở các nước. Đến ngày nay, IMF và WB vẫn tổ chức các
khóa đào tạo cho cán bộ của các nước đang phát triển các kỹ năng dự báo mức đầu tư
cần thiết, cân xứng với “mức tăng trưởng mục tiêu”.
Chúng tôi, những nhà kinh tế IFI, đã sử dụng phương pháp bù phần thiếu hụt tài chính
trong bối cảnh chuyển giao hỗn loạn giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản.
Báo cáo của WB về Lítva cho biết “sẽ cần phải có những khoản hỗ trợ lớn từ bên
ngoài” để “cung cấp các nguồn lực cho những đầu tư quan trọng” để ngăn chặn sự
giảm sút sản lượng”. Bản báo cáo năm 1998 của WB về Lítva vẫn sử dụng giả thuyết
rằng tăng trưởng tỷ lệ với đầu tư. Một báo cáo năm 1997 về đất nước bị chiến tranh
tàn phá, Croatia, nói rằng “để đạt được mức tăng trưởng bền vững 5-6%… trong vòng
3 năm tới, (nước này) phải có mức đầu tư 21-22% GDP”.
Cần phải có mức viện trợ và đầu tư là bao nhiêu để đạt mục tiêu tăng trưởng? Báo cáo
của Ngân hàng Tái thiết và Phát triển châu Âu (EBRD) năm 1995 đã khéo léo chỉ ra
rằng đây là câu hỏi của các nhà hoạch định trung ương – nhưng rồi cũng đưa ra câu
trả lời. EBRD tuyên bố họ đang sử dụng “phương trình tăng trưởng Harrd-Domar” để
dự báo về các yêu cầu đầu tư. Phương trình này cảnh báo các nước cộng sản trước đây
rằng “sẽ cần phải có khoản tài chính đầu tư ở mức 20% GDP trở lên” để đạt “mức
tăng trưởng 5%”. Bản báo cáo nhận định “viện trợ chính thức có điều kiện… sẽ góp
phần bù đắp phần thiếu hụt giữa tích lũy và đầu tư trong nước”.
Như vậy, vòng tròn nghịch lý khép lại. Các nền kinh tế Đông Âu cũ đã khơi nguồn
cho phương pháp bù phần thiếu hụt tài chính. Cuộc chiến tranh lạnh đã làm nảy sinh ý
tưởng bù đắp phần thiếu hụt này bằng viện trợ, và bây giờ nền kinh tế tư bản cố gắng
bù đắp phần thiếu hụt tài chính cho các nền kinh tế Đông Âu trước đây.
Viện trợ đầu tư theo kinh nghiệm
36