Page 40 - Truy Tìm Căn Nguyên Tăng Trường
P. 40

gian 4 năm, mức đầu tư tăng theo “mức yêu cầu” chỉ chiếm 6% thời gian. 94% giai
               đoạn thời gian còn lại đều vi phạm “điều kiện cần”. Theo kinh nghiệm, tăng đầu tư

               không phải là điều kiện cần và đủ để tăng tăng trưởng từ ngắn đến trung hạn.
               Để hiểu tại sao ý tưởng cho rằng tăng trưởng tỷ lệ thuận với mức đầu tư của giai đoạn

               trước không đúng trên thực tế, hãy nhớ rằng mối quan hệ như vậy giả định, máy móc

               là yếu tố kìm hãm sản xuất, vì cho rằng lao động thường xuyên dư cung. Học giả
               được trao tặng giải Nobel, Robert Solow, tác giả của mô hình tăng trưởng mà tôi sẽ
               bàn tới trong chương sau, đã chỉ ra kẽ hở trong giả định này từ năm 1956 (mặc dù

               nhiều chuyên gia kinh tế ở IFI đã không chú ý đến ý kiến sâu sắc này của ông trong

               suốt 4 thập kỷ sau đó). Nếu dư cung lao động và nguồn cung máy móc có hạn, các
               công ty sẽ có nhiều động lực để tăng số lượng công nhân và giảm số lượng máy móc.

               Ví dụ, các dự án xây dựng đường sá ở nước khan hiếm nhân công như Mỹ dùng nhiều
               máy búa khoan và tương đối ít công nhân. Ngược lại, các dự án xây dựng đường sá ở

               nước có nhiều lao động như Ấn Độ lại sử dụng nhiều công nhân ngay từ những công
               đoạn nhỏ nhất như đập đá. Giả định đầu tư là rào cản cứng nhắc với tăng trưởng

               không phù hợp phương châm “con người hành động vì động cơ”.
               Ý tưởng về lao động thặng dư dẫn đến nguyên nhân phải khẩn cấp bù lại phần thiếu

               hụt đối với đầu tư “cần thiết” – nếu đầu tư không sẵn sàng tạo ra tăng trưởng sản
               lượng đủ để thu hút số lao động dôi dư này, thất nghiệp sẽ gia tăng. Ví dụ, một báo

               cáo của WB năm 1998 về Ai Cập đã sử dụng ý tưởng tăng trưởng tỷ lệ với đầu tư
               thông thường, và nhận thấy khả năng đáng báo động là tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng vọt

               lên 20% lực lượng lao động vào năm 2002 (so với 9,5% năm 1998) nếu tăng trưởng
               chỉ là 2%. Mặt khác, nếu tăng trưởng ở mức 6,5% (kèm theo mức đầu tư cao hơn), tỷ

               lệ thất nghiệp năm 2002 sẽ chỉ là 6,4% lực lượng lao động. Ý tưởng cho rằng đầu tư
               thấp sẽ làm tăng tỷ lệ thất nghiệp quả thật ngớ ngẩn – một lần nữa nó phớt lờ khả

               năng thay thế máy móc bằng lao động. Nếu máy móc tăng chậm vì mức đầu tư thấp,
               số lượng công nhân dôi dư sẽ thay thế số máy móc khan hiếm. Ý tưởng về lao động

               dôi dư cho rằng số người bổ sung sẽ không có ảnh hưởng gì tới sản xuất theo một

               mức đầu tư đã định, một ý tưởng đã có chứng cứ bác bỏ.
               Chúng ta có thể đạt được tăng trưởng nhiều hơn như thế nào từ đầu tư? Đúng là khi
               nền kinh tế tăng trưởng, nó sẽ cần thêm máy móc. Nhưng lý do khiến mối quan hệ

               giữa đầu tư và tăng trưởng cứng nhắc không hoạt động là vì đầu tư vào máy móc chỉ


                                                             40
   35   36   37   38   39   40   41   42   43   44   45