Page 37 - Truy Tìm Căn Nguyên Tăng Trường
P. 37

Theo như tôi được biết, chưa có ai kiểm định phương pháp bù phần thiếu hụt tài chính
               bằng kinh nghiệm thực tiễn. Đến khi dữ liệu của các nước đã có đủ, mô hình này đã

               không còn được ưa chuộng trong các tài liệu học thuật nữa. Tuy nhiên, như chúng ta
               đã thấy, bóng ma của mô hình này vẫn hiện diện trong việc xác định các yêu cầu viện

               trợ và triển vọng tăng trưởng của các nước nghèo. Chúng ta hãy kiểm định mô hình

               này.
               Khi chúng tôi, những người sử dụng phương pháp bù phần thiếu hụt tài chính, tính
               toán các yêu cầu viện trợ về đầu tư “cần có” vượt mức tích lũy thực tế, chúng tôi giả

               định rằng viện trợ sẽ lần lượt được đưa vào đầu tư. Thêm nữa, các nhà viện trợ đã quy

               định rõ điều kiện các nước phải đồng thời tăng mức tích lũy quốc gia, điều mà một số
               người như Rostow đã nghĩ là sẽ tự nhiên xảy ra. Như vậy, viện trợ kết hợp với các

               điều kiện tích lũy phải làm tăng mức đầu tư với tỷ lệ thậm chí còn cao hơn 1-1. Chúng
               ta hãy xem điều gì đã xảy ra trên thực tế.

               Chúng tôi có dữ liệu từ năm 1965 đến 1995 của 88 nước và vùng lãnh thổ. Đối với
               chúng tôi, mối liên hệ giữa viện trợ và đầu tư phải qua hai lần kiểm tra cẩn thận. Đầu

               tiên, phải có một mối liên hệ thống kê tích cực giữa viện trợ và đầu tư. Thứ hai, viện
               trợ phải được chuyển vào đầu tư với tỷ lệ ít nhất là 1 1: 1% GDP tăng lên trong viện

               trợ phải làm tăng 1% GDP trong đầu tư. (Rostow dự đoán đầu tư thậm chí sẽ tăng hơn
               tỷ lệ 1-1 do nước nhận viện trợ sẽ tăng tích lũy). Trong những kiểm định này, viện trợ

               – đầu tư có mối quan hệ như thế nào? Trong lần kiểm định đầu tiên, chỉ có 17 trong số
               88 nước và vùng lãnh thổ cho thấy mối quan hệ thống kê tích cực giữa viện trợ và đầu

               tư.
               Chỉ có sáu trong số 17 nước và vùng lãnh thổ này qua được phần kiểm định về tỷ lệ

               viện trợ-đầu tư thấp nhất là 1-1, trong đó có hai nền kinh tế nhận được các khoản viện
               trợ không đáng kể là Hồng Kông (với mức viện trợ bình quân 0,07% GDP từ năm

               1965 đến năm 1995), và Trung Quốc (bình quân 0,2% GDP). Bốn nước còn lại là
               Tunidia, Marốc, Manta, và Sri Lanka đều có nguồn viện trợ đáng kể. Tám mươi hai

               nước còn lại không qua được hai cuộc kiểm định này.

               Những kết quả này gợi nhớ lại các kết quả của một nghiên cứu năm 1994 cho thấy
               không có mối liên quan nào giữa viện trợ và đầu tư ở các nước. Khác với nghiên cứu
               này, ở đây, tôi không định đưa ra một kết luận chung về hiệu quả của các khoản viện

               trợ nước ngoài. Có rất nhiều vấn đề ngay trong việc tiến hành một đánh giá như vậy,


                                                             37
   32   33   34   35   36   37   38   39   40   41   42