Page 31 - Truy Tìm Căn Nguyên Tăng Trường
P. 31

Năm 1890, nhà kinh tế học vĩ đại người Anh, Alfred Marshall đã nói cuộc tìm kiếm
               tăng trưởng “đem lại cho môn kinh tế học mối quan tâm chính và lớn nhất”. Nhà kinh

               tế đoạt giải Nobel, Robert Lucas đã thừa nhận trong một bài báo năm 1988 rằng một
               khi bắt đầu nghĩ đến tăng trưởng kinh tế, thì “rất khó nghĩ về bất kỳ thứ gì khác”.

               Nhưng mối quan tâm thường trực về học thuyết tăng trưởng lại chỉ tập trung vào các

               nước giàu. Không nhà kinh tế học nào quan tâm nhiều đến các vấn đề của những nước
               nghèo. Cuốn sách World Economic Survey (Điều tra kinh tế thế giới) năm 1938 của
               Hội Quốc liên , do James Meade, chuyên gia kinh tế đoạt giải Nobel sau này, soạn

               thảo, chỉ có một đoạn về Nam Phi. Các khu vực nghèo ở châu Á và châu Phi không hề

               được nhắc đến.
               Đột nhiên, sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, chúng ta, những chuyên gia chính sách

               đã từng phớt lờ các nước nghèo trong hàng thế kỷ, giờ đây lại kêu gọi sự chú ý tới
               “những vấn đề cấp bách” của những nước này. Các nhà kinh tế đưa ra nhiều học

               thuyết về cách mà các nước nghèo mới giành được độc lập sẽ tăng trưởng và đuổi kịp
               các nước giàu như thế nào.

               Thật không may cho các nước nghèo là thế hệ các chuyên gia kinh tế phát triển đầu
               tiên lại chịu ảnh hưởng của hai sự kiện lịch sử diễn ra đồng thời: Đại khủng hoảng và

               quá trình công nghiệp hóa nhờ tiết kiệm và đầu tư bắt buộc của Liên Xô. Kinh tế suy
               thoái và số lượng lớn, đang ngày một tăng của những lao động bán thất nghiệp ở các

               vùng nông thôn của các nước nghèo đã thôi thúc nhà kinh tế học phát triển Arthur
               Lewis đề xuất mô hình “lao động thặng dư”, trong đó máy móc là yếu tố giới hạn.

               Lewis cho rằng việc xây dựng các nhà máy sẽ thu hút hết số lao động này mà không
               làm suy giảm hoạt động sản xuất ở nông thôn.

               Lewis và các nhà kinh tế học phát triển khác trong những năm 1950 đã đưa ra giả
               thuyết rằng tỷ lệ người và máy là không đổi, ví dụ 1 người 1 máy. Vì có lao động

               thặng dư, máy móc (chứ không phải lao động) là hạn chế ràng buộc sản xuất. Học
               thuyết của Domar phát biểu, sản lượng tỷ lệ thuận với số máy. Lewis cho rằng nguồn

               cung công nhân là “không giới hạn” và trích dẫn một ví dụ cụ thể của một nền kinh tế

               đã tăng trưởng nhờ thu hút lao động nhàn rỗi ở vùng nông thôn: Liên Xô.
               Theo Lewis, “yếu tố cốt lõi của phát triển kinh tế là tích lũy vốn nhanh”. Vì tăng
               trưởng tỷ lệ với đầu tư, bạn có thể ước lượng tỷ lệ này và tính ra mức đầu tư cần thiết

               cho một mục tiêu tăng trưởng nhất định. Giả sử bạn có tỷ lệ 1% tăng trưởng với mỗi


                                                             31
   26   27   28   29   30   31   32   33   34   35   36