Page 29 - Truy Tìm Căn Nguyên Tăng Trường
P. 29
nguyên nhân gây tử vong của gần một nửa số trẻ em năm 1983. Thu nhập bình quân
đầu người năm 1983 thậm chí còn thấp hơn cả mức thu nhập năm 1957 khi nước này
giành độc lập.
Cuộc khủng hoảng năm 1983 đã buộc chính phủ của Rawlings phải có những nỗ lực
mới để cứu vãn Ghana, và tăng trưởng đã phục hồi, nhưng đó là một chặng đường dài
và chậm chạp sau ¼ thế kỷ suy thoái.
Mô hình Harrod-Domar , giai đoạn 1946-2000
Quan niệm cho rằng đầu tư qua hình thức viện trợ tài chính để xây dựng đập, đường
sá và máy móc sẽ đem lại tăng trưởng kinh tế đã xuất hiện từ rất lâu. Tháng 4 năm
1946, giáo sư kinh tế Evsey Domar đã có một bài viết về tăng trưởng kinh tế: “Mở
rộng nguồn vốn, tốc độ tăng trưởng và việc làm”, trong đó bàn về mối quan hệ giữa
các cuộc suy thoái ngắn hạn và đầu tư ở Mỹ. Mặc dù Domar cho rằng sức sản xuất tỷ
lệ với nguồn lực máy móc, thiết bị, song ông cũng thừa nhận giả định như thế là phi
thực tế và 11 năm sau đó, năm 1957, khi than phiền về “lương tâm chưa bao giờ bị
cắn rứt hơn thế”, ông đã phủ nhận học thuyết này. Ông nói rằng mục đích ban đầu của
ông chỉ là bình luận về cuộc tranh luận giữa các chuyên gia kinh tế về chu kỳ kinh
doanh, chứ không phải để tìm ra một tỷ lệ tăng trưởng có ý nghĩa đã được kiểm
nghiệm trên thực tế. Ông cho hay lý thuyết của ông không mở rộng ra tăng trưởng dài
hạn, và thay vào đó, ông ủng hộ học thuyết tăng trưởng mới của Robert Solow (sẽ
được bàn luận ở chương sau).
Tóm lại, mô hình của Domar không được xây dựng như một mô hình tăng trưởng,
không liên quan đến mô hình tăng trưởng, và chính người xây dựng mô hình này hơn
40 năm trước đây đã phủ nhận ý nghĩa là mô hình tăng trưởng của nó. Vì thế, thật mỉa
mai khi trong quá khứ cũng như cho đến tận hôm nay, mô hình của Domar vẫn là mô
hình tăng trưởng được áp dụng rộng rãi nhất trong lịch sử kinh tế học.
Làm sao mô hình của Domar tồn tại được qua những lần tưởng như sụp đổ vào những
năm 1950? Chúng ta, những nhà kinh tế học, đã (và vẫn) dùng nó khi xác định tỷ lệ
đầu tư “cần thiết” để đạt được tỷ lệ tăng trưởng mục tiêu cho các nước nghèo, từ
Albania cho đến Zimbabwe. Khác biệt giữa khoản đầu tư cần thiết và khoản tự tích
lũy của quốc gia được gọi là “phần thiếu hụt tài chính”. Người ta cho rằng không sẵn
có nguồn tài chính tư để bù đắp cho phần thiếu hụt này, vì thế các nhà viện trợ bù đắp
phần thiếu hụt tài chính này bằng khoản viện trợ nước ngoài để đạt được mức tăng
29