Page 131 - Truy Tìm Căn Nguyên Tăng Trường
P. 131

Chúng ta hãy xem cấu trúc cung cấp vốn cho thâm hụt thương mại ở các nước HIPC.
               Có một vài mô hình khá gây tò mò. Trước hết, những nước trong nhóm HIPC được

               nhận ít đầu tư nước ngoài (FDI) hơn các nước đang phát triển khác ở cùng mức thu
               nhập. Đây có thể ám chỉ gián tiếp những biểu hiện khác của chính sách tồi: các nhà

               đầu tư không muốn đầu tư vào một nền kinh tế có thâm hụt ngân sách lớn và giá trị

               đồng nội tệ quá cao. Họ cũng lo ngại, không biết việc xóa giảm nợ có ảnh hưởng thế
               nào tới những hoạt động ngoại thương khác, ví dụ như đối với cổ phần đầu tư nước
               ngoài.

               Thứ hai, mặc dù chính sách kém, nhưng các nước trong nhóm HIPC vẫn được WB và

               IMF rót vốn nhiều hơn các nước đang phát triển khác. Dù không đáng kể so với thâm
               hụt ngân sách, nhưng số tiền viện trợ WB cấp thêm cho các nước HIPC (0,96% của

               GDP) lại là rất lớn nếu so với số tiền trung bình (1,1% GDP) mà WB rót cho các nước
               đang phát triển. Viện trợ của WB trong các khoản vay nước ngoài của các nước HIPC

               cũng cao hơn so với các nước ngoài nhóm 7,2%.
               IMF cũng tương tự như vậy. IMF cho các nước trong nhóm HIPC vay nhiều hơn các

               nước ngoài nhóm. Cũng như tác động cấp vốn của WB, số tiền này không thấm vào
               đâu so với thâm hụt tài khoản (0,73% GDP) nhưng lại là lớn đối với các nước ngoài

               nhóm HIPC (0,5% GDP). Tác động của nhóm HIPC đối với các khoản vay từ IMF
               cũng có chung các dấu hiệu và ý nghĩa như đối với WB: IMF cho các nước HIPC vay

               nhiều hơn 4,4% so với các nước ngoài nhóm. Các nước HIPC bị xếp vào nhóm nợ cao
               một phần cũng là vì những khoản vay từ hai tổ chức này.

               Thứ ba, trong giai đoạn 1979-1998, xu hướng trong thành phần của những khoản cho
               vay mới đối với các nước HIPC cũng có kết quả tương tự. Tín dụng tư nhân biến mất,

               thay vào đó, các khoản viện trợ của các tổ chức đa phương tăng lên đáng kể. Chỉ riêng
               mức đóng góp của chương trình cho vay với lãi suất thấp của WB, hay còn gọi là Hiệp

               hội phát triển quốc tế (IDA – International Development Association) đã tăng gấp ba
               lần trong chương trình cấp vốn cho vay mới. Đầu tiên, tín dụng tư nhân chiếm hơn 3,6

               lần số tiền của IDA nhưng đến giai đoạn cuối, mức đóng góp của IDA lại cao hơn tín

               dụng tư nhân 8,6 lần.
               Thứ tư, chúng ta hãy xem xét sự lưu thông thật sự của các tiềm lực kinh tế ở các nước
               trong nhóm HIPC, tức là khoản vay mới trừ đi nợ và lãi suất. Trong thời kỳ gánh nặng

               nợ nần tăng (1979-1987), việc chuyển giao tiềm lực chủ yếu đến từ các nguồn ưu đãi


                                                            131
   126   127   128   129   130   131   132   133   134   135   136