Page 143 - Phương Pháp Thực Dưỡng
P. 143
2. Ăn rộng (Thực đơn 2 - TĐ2): Ăn uống theo Chê độ Ăn
uống dưỡng sinh (xem Chiíơng 4), nhưng tránh các thứ thịnh
Âm hoặc thịnh Dương như đường, cà, măng, nấm, trái cây,
thực phẩm gốc động vật (trừ trường hợp đặc biệt). Cách ăn này
dễ áp dụng hơn cách ăn triệt để, nhưng thời gian chữa trị lâu
dài hơn, thường dùng cho những bệnh nhân mãn tính hoặc đã
trải qua các kỹ thuật trị liệu nặng nề như xạ trị, hóa trị (để
tránh sự thay đổi đột ngột gây phản úng manh cho cơ thể).
Cũng có thể ăn theo cách này trong lúc còn điều trị bằng
chiếu xạ, thuốc men (ngoài những món ăn thức uống của Thực
Du&ng qui định) để tăng sức chống chịu tác dụng phụ do những
kỹ thuật y khoa hoặc thuốc men gây ra.
3. Nhịn ăn: Nhịn ăn hay “tuyệt thực” thường có tác dụng
manh và nhanh hơn cách ăn triệt để. Tuy nhiên, nếu áp dụng
sai sẽ dẫn đến tình trạng nguy hiểm. Vì vậy, chỉ nên nhịn ăn
khi thấy thật cần thiết, và nên nhờ ngiẩù có kinh nghiệm theo
dõi chăm sóc cẩn thận, cần nhớ nhịn ăn theo phương pháp
Thực Dưững chỉ được uống nước lã nấu chín để ấm bằng thân
nhiệt (37°C) (cũng có thể uống trà gạo lứt rang - món 50, nhưng
tác dụng sẽ yếu hơn), và khi ăn lại phải cẩn thận, nhất là sau
thời gian nhin ăn lâu dài. Thí dụ: một hai ngày đầu chấm dứt
nhịn ăn chỉ nên uống trà gạo lứt rang (món 50); ngàv sau ăn
cháo tán (món 7); sau đó ăn cháo gạo lứt (món 8); khi dạ dày
tiêu hóa bình thường mới ăn cơm (nhớ nhai kỹ).
Thay vì nhịn ăn ngay, bệnh nhân có thể giảm ăn từ từ; thí
dụ ngày đầu ăn cháo gạo lứt, ngày thứ 2 bớt nửa lương cháo,
ngày thứ 3 uống nước cháo loãng, ngày thứ 4 khởi sự nhịn
hoàn toàn.
Cần lưa ý là không nên nhịn ăn khi người quá yếu hoặc
nhịn ăn quá lâu vì có thể làm suy kiệt sinh lực khó phục hồi
(nhất là trong trường hợp ung thư, dù u bướu có tiêu bớt).
137