Page 75 - Phong Tục Thờ Cúng Của Người Việt
P. 75

mới  rước  tượng  trỏ  về  xứ  Kinh  Bắc.  Chuyện  kể  rằng:  Sĩ Nhiếp  làm  thái  thú  Giao
   Châu  (187 -  226),  nhà  sư Ấn  Độ  A Đà  La tới trị sỏ của Sĩ Nhiếp ỏ  Luy Lâu, được
   một người mộ đạo mời về nhà mình ở. Cô con gái mang thai, sinh con gái, bế đi tim
   để trả A Đà  La.  Su  niệm  chú  cho một cây lớn tách đôi  ra, đặt đứa bé vào giữa hai
   mảnh cây khép lại. Bão giật đổ cây, nước lũ  cuốn đến thành Luy Lâu. Sĩ Nhiếp cho
   kéo cây lên  bờ  nhưng  không được.  Man  Nương đến đẩy nhẹ,  cây tự lăn  lên  bờ,  Sĩ
   Nhiếp  sai  lấy gỗ  tạc 4 pho tượng  Tứ  Pháp.  Gặp  năm  hạn  hán,  ông cho bày 4 pho
   tượng ra làm lễ cầu đảo. Lễ xong, mưa to gió lớn, sấm chớp.

       Thời Bắc thuộc trước sự o ép ngoại bang, thần linh bản địa cũng chịu chung số
   phận  với  dân  Việt.  Đạo  Phật  đã  như  một  cứu  cánh,  là  chỗ  dựa  của  cả  Thần  và
   người  để  chuyên  chô,  thúc  đẩy  sự  phát triển  cho  một ý  thức và  tâm  hồn  dân  tộc
   còn  trong  manh  nha.  Môi  cảnh  ấy  đã  cho  phép  thần  linh  nông  nghiệp  Việt  được
   Phật hóa.  Người  Việt đã có ý thức tiếp thu yếu tố tích cực của văn hóa Trung Hoa
   và  văn  hóa  Phật  giáo,  đó  là  khả  năng  phân  tích  tổng  hỢp,  để  một  mà  hóa thành
   nhiều.  Nhiều  là  biểu  hiện của một.  Một là chân  như là  bản thể  là  Phật Mẫu,  nhiều
   là  biểu  hiện  cụ  thể  từng  mặt,  là  hóa thân thích  ứng trong từng  hoàn  cảnh...,  là Tứ
   Pháp.  Thực  ra  không  đơn  giản  chỉ như vậy,  cùng  với  việc thờ  Tứ  Pháp  còn  nhiều
   yếu tố của tín ngưỡng dân gian cổ truyền, khiến chúng ta phải đặt ra nhiều vấn đề:

        - Một là: Về  không gian thờ Tứ Pháp.  Dựa trên những hiện vật và kiến trúc còn
   lại,  nếu xét dấu vết từ thế kỷ  XVI về trước, thì  hiện thấy chùa thờ Tứ  Pháp chỉ tìm
   thấy  ở  vùng  Bắc  Ninh  cũ,  nhu  chùa  Dâu  ở  Thuận  Thành,  chùa  Ninh  Hiệp  ở  Gia
   Lâm,  chùa Thái  Lạc ở  Hải  hưng  vào  các thế  kỷ  sau  việc thờ  Tứ  Pháp  theo chiều
   hướng  phát triển  của tín  ngưỡng  mà  mỏ  rộng  hơn,  như ỏ  Hải  Phòng,  ỏ  Vụ  Bản  -
   Nam  Định  và  phần  nào Tứ  Pháp  đồng  nhất với Tứ  Phủ.  Rộng  ra,  có  thể tin  được
   chính  Bà Đen ò Tây Ninh  cũng  là  một dạng  gần xa của Tứ  Pháp. Vậy cho ta nghĩ
   rằng: Tín ngưỡng Tứ Pháp là một hình thức thờ Mẫu được Phật giáo hóa ỏ giai đoạn
   đầu thời  kỳ  khai  phá  châu thổ thấp của Bắc bộ,  là  một mốc trên  bước đường phát
   triển của lịch  sử văn  hóa dân tộc. Tín  ngưỡng này được định  hình  khi ân trí cha đủ
   sức tiếp thu những ý nghĩa thuộc lĩnh vực hình nhi thượng học của Phật giáo và tinh
   thần của các hệ triết học lớn khác.

        -  Hai  là: Trong  kho tàng  huyền thoại về  người  Mẹ,  sự tích về  Man  Nương được
   tạm coi như sớm nhất.  Lược bỏ cái vỏ đời thường th) Man Nương mang tư cách như
   một mẫu  khởi  nguyên,  từ  Bà,  mà  các mẫu thuộc Tứ  Pháp  (mây,  mua,  sấm,  chớp)
   hạ  thế  để  mang  ân  huệ  cho  đời.  Rồi  khi  đạo  Phật  phát triển  ỏ  nước  ta,  Tứ  Pháp
   cũng  trò  thành  những  hóa  thân  của  Đức  Phật,  để  nhiều  ngôi  đền  thờ  các  vị  trỏ
   thành  chùa.  Đó  là  một biểu  hiện  văn  hóa  Phật giáo mang  đậm  bản  sắc Việt Nam
   (chùa  Dâu,  chùa  Đậu...),  nó  vượt  ra  ngoài  giáo  luật  để  biểu  hiện  các  ước  vọng
   truyền đời  của  nông  dân.  Không  những thế,  Mầu  còn  nhập thân  vào  Phật đài,  để
   nhiều hình tượng Chu  Phật, Bồ Tát mang dạng nữ nhân, trong đó nổi lên hơn cả là


                                                                                            77
   70   71   72   73   74   75   76   77   78   79   80