Page 221 - Phong Tục Thờ Cúng Của Người Việt
P. 221
lưu dân người Việt đã tiếp thu trong quá trình giao lưu văn hóa và trỏ thành tín
ngưỡng dân gian quan trọng trong đời sống cua nhân dân vùng biển. Cũng chính vì
xuất phát từ cội nguồn ấy mà tập tục thờ cá ông và các nghi lễ liên quan hằng năm
chỉ diễn ra từ mạn đèo ngang (Quảng Bình) trỏ vào các tỉnh ven biển phía nam, mà
khồng có các tỉnh phía Bắc. Tuy nhiên, trong quá trình tiếp diễn văn hóa, người Việt
đã có những thay đổi biến cải cơ bản, từ nghi thức tổ chức đám tang lấy cốt cá ông,
đến việc thờ tụng tế lễ hằng năm. ở đây có hiện tượng hòa đồng với một số tín
ngưỡng khác của người Việt như tục thờ ông bà, tiền hiền, hậu hiền, hoặc kết hỢp
với 1 số nghi lễ nông nghiệp như lễ cầu mùa, cầu an...Đặc biệt là việc rước xách thì
hoàn toàn theo lễ nghi của người Việt, từ trang phục đến cờ, lộng, kiệu, phướn và
những động tác hành lễ. Do những hạn chế về kiến thức khoa học, do tâm lý tin
vào sự phù trợ của thần, Phật nên những người làm nghề biển gọi cá Voi bằng
những tên gọi khác nhau như “ông Nam Hải”, “ông chuông”, “ông lộng”, “ông
khdi”, “Ông sứa”,...và họ coi đó là vị thần hộ mệnh giữa biển khơi, và việc thờ cúng
ông là việc đền ơn đáp nghĩa theo luật nhân quả của nhà Phật. Niềm tin ấy được
phản ánh trong những bài hát bá trạo và các bài văn tế bằng chữ hán nôm, và cả
trong một số bài sưu tầm được trong những vùng ven biển, ca ngợi ơn ông đã cứu
người cứu thuyền qua cơn sóng gió. Nội dung của các nghi lễ chứa đựng niềm khao
khát mộc mạc, chân thành của những người làm biển trên sông nước, hằng ngày
phải đối diện với thiên nhiên, biển cả đầy huyền bí và bất trắc. Trong khoảnh khắc
của lễ hội thiêng liêng và tin cẩn này, ta thấy khoảng cách giữa thần linh và đời
sống dân dã dường như không còn nữa.
Tục thờ cúng cá Voi với cội nguồn rất xa xưa, được phủ lên màu sắc Phật giáo
và cả đa giáo phù hỢp với cấu trúc đa nguyên trong tín ngưỡng của người Việt,
trong quá trình tổn tại và phát triển đã tiếp thu và tôn vinh một số đạo lý truyền
thống thắm đượm tính nhân văn sâu sắc.
Một đặc trưng dễ nhận thấy ỏ Bình Thuận là, đối với các làng quê làm nghề
trồng trọt và chăn nuôi đều có ngôi đình để thờ Thành Hoàng làng và các bậc tiền,
hậu hiền có công quy tụ dân cư đến khai hoang, lập làng dựng đình ngày trước.
Còn các làng chài làm nghề đánh bắt và chế biến hải sản ven biển thường xây các
lăng, vạn hoặc dinh để thờ ông Nam Hải và thực hiện các nghi lễ lien quan đến tập
tục, tín ngưỡng thờ cúng cá ông. Theo ngư dân, đây là vị thần cứu giúp họ mỗi khi
gặp tai nạn trên biển. Đó là vị thần thủy chung đối với họ nên được ngư dân kính
yêu và tôn trọng. Tín ngưỡng dân gian gắn với tín ngưỡng nghề nghiệp từ đời này
sang đời khác theo phong tục và truyền thống của ngư dân.
Qua khảo sát, nghiên cứu, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng đình làng, dinh,
lăng hoặc thờ ông Nam Hải có thể có ỏ những làng chài ven biển, chứ không thể
có ở những làng quê nông nghiệp hay những nghề khác, ở Bình Thuận, từ các làng
chài ven biển trong đất liền cho đến hải đảo hiện nay còn bảo lưu hàng chục ngôi
223