Page 97 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 97

Nhạc bao giờ cũng phải ăn với giọng thì âm điệu  mới nổi.  Hồi bấy giờ,  không
     biết do ấu trĩ hay ác ý, người ta từng gọi giọng điệu  Tây Tiến là giọng “yêng hùng” ,
     “buồn rớt” . Thực ra đó chính là chất giọng bi tráng khá hấp dẫn. Mà bi khí trong đó
     đáu có lấn át hào khí! Trái lại, bi khí càng làm cho hào khí thêm chân thực và thấm
     thìa.  Đọc  Tày  Tiến,  ít  ai  không  cảm  nhận  được  giọng  điệu  ấy.  Song,  khi  chỉ  ra,
     người ta  lại thường  lẫn với  nội dung. Toàn  đi tìm  những cảnh  mất mát  hi sinh với
     hành động quyết liệt quả cảm của  người Tây Tiến được khắc hoạ trong  nội dung
     (!)  Giọng  điệu  thì  trước  hết  phải  tìm trong  ngôn  ngữ và  hình  thái tổ chức của  nó
     chứ. Ví như,  để tạo nên điệu  buồn (bi),  không thể thiếu  sắc điệu thương tiếc,  nhớ
     nhung,  hoài niệm được thể hiện đậm ỏ những  nốt nhấn dọc theo điệu thơ “xa rồi
     Tây Tiến ơỉ’, “nhớ về... nhớ chơi vơr, “nhớ õ ỉ\ “có thây, “có nhơ’, ở những tính từ
     trĩu  nặng cảm kích xót xa “dãi dầư’, “rải rác”, “thăm thẳm’’..,. Còn tạo  nên  hào khí
     (tráng),  không thể thiếu  một  chất giọng  ngạo  nghễ  của  người  đứng  cao  hơn  thử
     thách,  khinh  thường  gian  truân.  Trong  đó,  điểm  nhấn  ngữ điệu  thường  rơi  vào
     những từ chỉ động thái mạnh, hoặc sắc thái gắt như “gầm thét’, “mắt trừnự’, “gầm
     lén’’, “khúc khuỷư’, “thăm thẳm”, “ngàn thướđ’, “một chia phôi’... Và làm sao thiếu
     được vai trò của  nhũmg  cụm từ có tính  phủ  định  đậm đặc trong toàn  bài:  “không
     bước  nữa”,  “bỏ  quên  đờỉ',  “không mọc  tóc”,  “chẳng  tiếc  đời  xanh” ,  “không  hẹn
     ưôd’,  “chẳng  về xuôi'...  chúng  làm  nên  ngữ khí ngang tàng,  bất  cần,  những  nét
     khống thể thiếu của chất giọng kiêu hùng Tây Tiến. Bởi vậy,  Tày Tiến tràn đầy hào
     khí chứ đâu có bi lụy!
         Nói đến Quang  Dũng là nói đến một trang tài hoa của xứ Đoài,  ông thuộc típ
     nghệ sĩ đa tài.  Làm thơ, viết văn, làm nhạc, vẽ tranh...  mỗi loại đều  ít nhiều thành
     tựư. Và sáng tác của ông  bao giờ cũng thấy nhạc hoạ giao duyên.  Có thể nói sự
     kết hợp nhạc họa là nét tài hoa nổi bật trong  ngôn  ngữ và bút pháp Quang  Dũng.
     Bất cứ đoạn nào trong Tây Tiến cũng có thể làm minh chứng. Ví như Dốc lên khúc
     khuỷu dốc thăm thẳm /Heo hút cồn mày súng ngủi trời /  Ngàn thước lên cao ngàn
     thước xuống /  Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi,  ở đây,  cả  nhạc và  hoạ  đều  đồng
     thanh cất tiếng, tiếng  nói của chúng chuyển hoá sang  nhau. Đến nỗi,  có thể xem
     Quang  Dũng  đang  vẽ tranh  bằng  nhạc.  Âm  thanh  và  nhịp điệu  đã  tiếp  ứng  cho
     ngữ nghĩa  để thi  sĩ vẽ  nên  một  hình thế núi  noi i và  qua  đó  là tâm thế quân  Tây
     Tiến thật sông động và sắc nét. Câu đầu chia thành hai vê với nhịp 4/3, mỗi vế bắt
     đầu  bằng  một chữ “dốc”  đanh  sắc,  gợi  ra  những  con  dốc tiếp  nối  nhau.  Câu thơ
     bảy tiếng có tới năm thanh trắc gợi ra sự gồ ghề, gân guốc, góc cạnh, từ láy “khúc
     khuỷu”  lại  được  phụ  hoạ  bằng từ láy “thăm thẳm”  gợi  được  hình thế gập  ghềnh,
     quanh co của dốc đèo. Tất cả như hè nhau  hòng làm nản chí kẻ leo dốc. Câu thứ
     hai,  với  hình  ảnh  “súng  ngửi  trời’,  lời  thơ  không  cần  nói  đỉnh  núi,  mà  vẫn  gợi  ra
     được đỉnh núi, gợi được thế đứng của kẻ đã chinh phục được đỉnh cao nhất của núi
     rừng miền Tây. Câu thứ ba, tạo hình bằng nhịp điệu và sô từ.  Do nhịp 4/3, câu thơ
     như bẻ  đôi  thành  hai  vế tựa  hồ  hai  vách  núi  dựng  đứng,  với  ngàn  thước  lên  và
     ngàn thước xuống. Một câu thơ mạnh mẽ đầy khí lực. Đoạn thơ kết bằng một điệu

     96
   92   93   94   95   96   97   98   99   100   101   102