Page 93 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 93

B. TIẾP CẬN TÁC PHẨM
          I-  Tây Tiến của Quang Dũng
          1. Nỗi nhó và mạch thơ
          Trong lần in thứ hai, Quang Dũng đã tước bớt đi chữ “nhổ’ ở nhan để, tên bài
      thơ mới còn như hiện nay là  Tây Tiến.  Có lẽ,  không chỉ vì thấy thừa,  mà còn lí do
      khác; sỢ lộ và hẹp. Có cần phải  phơi lộ nỗi  nhớ vốn chan chứa  khắp toàn bài lên
      ngay cái nhan đề không? Chả cần, đọc vào, sẽ thấy. Thêm chữ,  lắm khi làm hẹp
      nghĩa,  hẹp tầm.  Nhớ  Tây  Tiến  là  cái tựa  có vẻ  khuôn vào  loại  nỗi  niềm có  phần
      riêng  tây.  Còn  Tày  Tiến,  xem  ra,  đã  khái  quát  hơn,  lại  kiêu  hùng  hơn.  Nó  như
      muốn  thâu  tóm  cả  đất  trời  Tây  Tiến,  cả  cuộc  hành  binh  Tây  Tiến  vào  một  bức
      tranh toàn cảnh gồm chứa cả thiên nhiên cùng trận  mạc.  Mà thực là  như vậy,  qui
      mô Tây Tiến có thể không lớn,  nhưng tính chất của  nó thì có  khác nào một cuộc
      vạn lí trường chinh. Đến  nay,  qua bao thăng trầm,  Tây Tiến đã chứng tỏ: tự nó là
      một thế giới nghệ thuật nguyên vẹn, thế giới ấy sẽ còn lưu giữ được lâu dài bầu khí
      quyển lịch sử của cái thuở ban đầu dân quốc ấy\
          Cảnh sắc nằm im lìm trong kí ức vốn chỉ như những tĩnh vật trong bảo tàng, dù
      kí ức về một thời chưa xa. Không có thần khí của xúc cảm thổi vào, hình bóng vạn
      vật dù  mĩ lệ đến  mấy vẫn  chỉ là  hoá thạch.  Nỗi  nhớ dậy  lên  làm  một nguồn sinh
      khí, nó soi tràn đến đâu, cũng tưới tắm đến đấy, muôn vàn hình sắc trong kí ức bấy
      giờ  mới  bừng  tỉnh  để  sống  đời  hình  tượng  của  chúng  với  tất  cả  vẻ  tươi  tắn  sơ
      nguyên.  Trong  miền  kí ức  Tây Tiến,  cả  những  chi tiết  nhỏ  nhất  cũng  được thấm
      đượm, bao bọc, chan hoà bởi một nỗi nhớ chập chùng da diết. Nỗi nhớ truyền sức
      sống cho từng bông lau, từng bó đuốc, từng vách đá, từng chóp mây, khiến chúng
      thành hồn lau hắt hiu  nẻo bến bờ, thành đuốc hoa tưng bừng đêm hội diễn, thành
      thác  dữ oai  linh,  đỉnh  lũ  ngang tàng,  thành  biên  ải  mồ  hoang,  góc  rừng  sốt rét...
      Nỗi  nhớ lúc thì chơi vơi bất định,  lúc thì  nôn  nao cồn cào. Tất cả  như được châm
      ngòi từ câu mở đầu, nó là cái khoảnh khắc nỗi nhớ tiếc tràn bờ buột ra thành tiếng
      kêu vang động; Sõng Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Câu thơ bảy chữ, thì đã có tới bốn chữ
      là địa danh, và đã có hình ảnh trực tiếp nào đâu, thê mà nó cứ vọng xa vào không
      gian, dội sâu vào tâm tưởng.  Nó là tiếng vọng của một quá khứ thàm thẳm không
      chịu  nguôi yên trong tâm can thi sĩ.  Chừng  như,  kể từ giây  phút ấy chúng  không
      còn là những địa danh vô cảm, vô can trên bản đồ nữa. Từ khoảnh khắc ấy những
      chữ là địa danh kia đã cất giữ cho Quang Dũng cả một quãng đời.  Bỏi thế, toàn bộ
      bài thơ như một thế giới được bao bọc trong bầu khí quyển riêng của nỗi nhớ này.
          Thơ viết bằng nỗi nhớ từ xưa đến nay khó mà kể hết.  Nhưng ít có bài nào mà
      nhớ  nhung  lại  được  biểu  đạt  bằng  nhiều  chữ lạ  và  ám  đến  vậy.  Người  đọc  Tây
      Tiến,  làm sao quên được chữ “nhớ chơi vơi” trong câu:  Nhớ về rửng núi nhó chơi
      vơi. Chơi vơi là trạng thái của nỗi nhớ hay trạng thái của cảnh vật được nhớ? Nó là



      1 Lời Xuân Diệu, mượn cách nói trong một câu thơ Thế Lũ “Cái thuở ban đẩu lưu luyến âý”.

      92
   88   89   90   91   92   93   94   95   96   97   98