Page 74 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 74
mình (người ra đi) như là đồng kẽm đánh rơi ngang đường: Thầy đừng nhớ, mẹ
đừng thương - cầm như đồng kẽm ngang đường bỏ rơi! Cho nên, cách hiểu giàu
sức thuyết phục hơn cả là; vì chí lớn, li khách không thể không ra đi. Một khi ra đi,
có thể không về; Mẹ thà coi (li khách) như chiếc lá bay - Chị thà coi (li khách) như
là hạt bụi - Em thà coi (li khách) như hơi rượu say.
Ba câu cuối cùng vẫn là lời của người đưa tiễn, nhưng lại được diễn tả bằng
ngữ điệu và ý thức của người ra đi, nhấn mạnh một lần nữa cái chí lớn (Chí nhớn
chưa về bàn tay không) của li khách. Giọng thơ có vẻ dứt khoát, nhưng vẫn không
giấu nổi sự đau đớn, như dằn lòng dứt áo ra đi.
5. Sức hấp dẫn của Tổng biệt hành không chỉ là ỏ chỗ đã làm “sống lại cái
không khí riêng của nhiều bài thơ cổ” mà chủ yếu là vì đã tạo nên một chất lượng
thẩm mĩ mới cho một thi đề quen thuộc. Cái hay của bài thơ là đã miêu tả thành
công vẻ đẹp của hình tượng nhân vật li khách - hiện thân của cái cao cả - trong
mối quan hệ với thế giới nội tâm sâu kín, toàn vẹn, đầy tinh thần nhân đạo, thể
hiện cái nhìn nhiều chiều và sâu sắc về con ngừời của Thâm Tâm. Đó cũng là lí do
chính làm cho Tống biệt hành trỏ nên bất tử. '1 ^
■■ ^ , m
Ế
Tỉ ^ TRẦN ĐẢNG SUYỂN
- 'Ũ i f irí'
■
II- “Tống biệt hành” và nghệ thuật lưõng hoá^
1. Tống biệt hành là bài thơ hay nhất của Thâm Tâm và được nhiều nhà
nghiên cứu xem là một trong những bài thơ tiêu biểu bậc nhất cho phong trào Thơ
mới. “Đọc Tống biệt hành ta thấy sống lại cái không khí riêng của nhiều bài thơ cổ.
Điệu thơ gấp. Lời thơ gắt. Câu thơ rắn rỏi, gân guốc. Không mềm mại uyển
chuyển như phần nhiều thơ bây giờ. Nhưng vẫn đượm chút bâng khuâng khó hiểu
của thời đại” (Hoài Thanh).
Giải thích sự “khó hiểu” ấy, nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá cho rằng; “Khó hiểu
vì trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân thống trị, nhân dân mất tự do nên nhà thơ
không thể nói rõ tâm trạng thực...”.
Ghi nhận đóng góp của Thâm Tâm, bằng cách đặt trong dòng chảy của Thơ
mới và nhìn nhận dưới góc độ “tinh thẩn dân tộc”, Phan Cự Đệ viết; ‘Từ 1940 trở
về sau, tinh thần dân tộc trong Thơ mới yếu dần đi. Một vài nhà thơ tim cách lâng
mạn hoá, hiện đại hoá những mối tình trong lịch sử (...). Thảng hoặc đó đây có nói
đến tinh thần dân tộc thì lại là một thứ chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, thiển cận. Còn
lại một chút gì có lẽ ở Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, những thi sĩ có chịu ít nhiều
ảnh hưởng của Văn hoá Cứu quốc bí mật. Trong một số bài thơ của họ có phảng
phất nỗi đau buồn của người nghệ sĩ không có tự do, không có tổ quốc (Độc ca
hành, Chiều mưa xứ Bắc của Trần Huyền Trân, Tống biệt hành, Can trường hành
của Thâm Tâm).
“Tuy nhiên, hình ảnh những chiến sĩ yêu nước thoát lí gia đĩnh đi hoạt động bí
73