Page 67 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 67
Trầm tích thời gian là cả khối phức cảm bi kịch của thi nhân; muốn níu giữ,
hoà nhập với dòng đời, muốn tha thiết với cuộc đời tươi đẹp nhưng càng ngày
càng bị đẩy lùi xa hơn vào vùng cô tịch. Khi được đánh thức, những “đền đài, miếu
mạo” trong các lớp trầm tích thời gian kí ức trỗi dậy nhưng chỉ để vùi sâu hơn nỗi
đớn đau ở thực tại, nỗi khắc khoải của tâm hồn bi đát mang cái-tôi-bi-kịch-thi-nhân
Hàn Mặc Tử.
LÊ HUY BẮC
III • “Đây thôn Vĩ Dạ” và nỗi niềm của Hàn Mặc Tử
Bài thơ ba khổ, mỗi khổ có một câu được kết thúc bằng dấu chấm hỏi. Những
câu ấy, sao mà ma quái! Chủ thể trữ tình từng lúc lại hiện lên trong chính bức tranh
do anh ta vẽ nên và trải ra trưốc mắt người đọc, như để báo cáo sự có mặt, như để
nhắc tằng; “bức tranh chính là ta đó”, rồi lại biến vào trong cảnh, khiến cho “lũ
người chứng kiến” là độc giả chúng ta bị ám ảnh mãi không thòi.
Cái chìa khoá nghệ thuật của bài thơ nằm ở đó chăng? Tôi cứ muốn bám vào
chúng cùng cái nhan đề nghe hân hoan niềm vui của sự chộp bắt thi tứ để làm một
cuộc du hành vào miền xa thăm thẳm của cõi lòng nhà thơ.
Theo Quách Tấn, người bạn thơ thân thiết và là người hiểu rõ cuộc đời Hàn
Mặc Tử, thì bài thơ này được sáng tác vào năm 1939, ngay sau khi tác giả nhận
được từ xứ Huế một “phiến phong cảnh” với lời hỏi thăm sức khoẻ của Hoàng Cúc
- một cố nhân. Rất có thể chính lời hỏi thăm của người con gái Huế ấy chứ không
phải cái gì khác đã khiến cho một tứ thơ xuất thần vụt sáng trong đầu thi nhân,
giữa lúc thi nhân đang lâm vào thời điểm bi đát nhất của cuộc đời mình. Ta không
biết trên thực tế Hoàng Cúc đã viết gì ỏ mặt sau tấm ảnh chụp cảnh khóm tre, mặt
nước, con thuyền dưới ánh sáng khó xác định là của buổi hừng đông hay của một
đêm trăng, nhưng ta có thể tin rằng đối với Hàn Mặc Tử, lời của ngiÀli thôn Vỉ chứa
đựng một âm sắc rất đặc biệt có thể làm trái tim đau bớt phần nhức nhối. Nó dìu
dịu xa xa như gió thoảng, vừa là hỏi lại vừa là dỗi hờn và mong đợi. Từ chơi nhẹ
như không chính thực phong kín một nỗi niềm...
Ngón tay vừa chạm tới dây đàn, hộp đàn liền tiếp nhặn tiếng rung. Mới đó, lời
nhắc nhủ bên ngoài đã hoà nhập, hoá thân ngay thành nỗi niềm chủ quan, thành
lời tự nhắc. Kí ức người thơ sống dậy. Năng lượng thơ được phóng toả đột ngột,
khiến cho cả đoạn thơ dội ngay vào thị giác người đọc một luồng sáng lạ - luồng
ánh sáng nội tâm:
Sao anh không về chơi thôn vr?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá táic che ngang mặt chữ điền.
66