Page 63 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 63

của nhân vật (hay của tôi - nhập vai) bị lời của chủ thể tôi - trữ tình (của  người  kể
    chuyện) lấn át.  Cuộc viễn chinh ấy không ồn ào, đột ngột.  Nó thể hiện  bước biến
    chuyển chầm chậm dòng nội tâm theo quy luật tăng trưởng cảm hứng trữ tình. Lời
    ở văn xuôi thường không nhất thiết phải như vậy.
        Thay đổi lời thơ tư trực tiếp sang gián tiếp, các bình diện hình thức khác cũng
    biến chuyển: theo  không  gian từ cận cảnh (cô gái,  thôn Vĩ...) đến viễn cảnh  (con
    thuyền, bài bắp, gió mây...), qua  hành trình thời gian: sáng (nắng) đến hoàng  hôn
    khi sương mù giăng toả xóa nhoà bóng hình... Đến cả con người và tình cảm cũng
    biến thiên,  nhẹ  hơn,  loãng  hơn,  ngỡ chừng  như chợt tan trong  khoảnh  khắc.  Nhờ
    sử dụng  kiểu  ngôn từ đặc biệt này  mà  Hàn  Mặc Tử đã thực  hiện được điều  kì  lạ:
    kết  nối  độc đáo  các sự vật,  hiện tượng,  không  gian,  thời  gian...  ở cách  xa  nhau,
    ngỡ khống thể ăn nhâp nhau, lại hoà hợp tuyệt vời trong hồn thơ.
        Từ “em” qua ‘1ỏi” điểm nhìn tịnh tiến từ xa đến gần để rồi xa thêm bỏi hai đại từ
    “ai”  ỏ  cuối  bài  thơ.  “Ai”  tượng  trưng  cho  bao  lớp  người?  “Ai”  mang  bao  tầng  ý
    nghĩa? Đọc câu thơ độc giả dễ  nhận  ra “ai” đầu tiên là ai - đối tượng trữ tình. “Ai”
    thứ hai trùng với tôi - trữ tình.  Con đường vận động của các đại từ nhân xưng của
     bài thơ đi từ “em” đến ‘1ôi” rồi qua ‘1a” (ai).  Diễn đạt theo cách  khác rằng  tôi - trữ
     tình của bài thơ bắt đầu từ tôi - nhập vai đến tôi - trữ tình và sau rốt là tôi - phân vai
     để hoà nhập “em” trong ‘lòi” và ‘1ôr trong cộng đồng, trong vũ trụ bao la vĩnh hằng
    thường biến. Với đặc tính chuyển dịch này Đây thôn Ví Dạ dẫu thuộc dòng thơ hiện
     đại  nhưng yếu tố cổ điển vẫn còn ẩn  náu.  Phảng  phất đâu  đấy là âm ba của  một
     bài  thơ  Thiền  đời  Lí,  chàng  Thôi  Hộ  trước  cổng  thành  Nam  trang,  phong  vị  của
     Lương  Châu  Từ (Vương  Hàn)  và  cả  Biệt Đổng  Đại của  Cao  Thích.  Niềm  nhung
     nhớ, tiếc nuối song chẳng thể nào níu giữ - Em vẫn đó. Em trong vòng tay, trong kí
     ức và em đã xa. Đâu còn nữa thời hoa mộng. Giờ đã tan nhạt nhoà ào giác. Trống
     vắng bảng lảng như sương khói chiều hôm.
        Tính chất cổ điển trong bài thơ còn được bộc lộ qua hệ thống tính từ.  Khác với
     Xuân Diệu,  Huy Cận... hay ngay cả ở một số bài thơ khác của  mình,  Hàn Mặc Tử
     ít sử dụng tính từ trong Đây thôn  Vỉ Dạ. cả bài thơ ch] vẻn vẹn sáu tính từ (mướt /
     mờ / đậm  đà / trắng / xanh / buồn thiu).  Như thế, tính chất, trạng thái  của  sự vật
     hiện tượng được toát lên từ chính bản thân chúng trong mối quan hệ với ngữ cảnh.
     Chẳng hạn ở bài thơ này dòng sông gợi  màu xanh,  ánh trăng  màu vàng,  bãi  bắp
     trổ hoa  gợi  màu xám trắng... Đặc điểm  này thơ cổ điển sử dụng  nhiều  bởi tính từ
     về  mặt chức  năng  rất dễ cá  thể  hoá  đậm  nét tôi  - trữ tình.  Điều  mà  lúc ấy  chưa
     được cộng tíồng chấp nhặn.
         Từ lời trực tiếp  biến tấu trong  lời  nửa trực tiếp để lời gián tiếp xuất  hiện,  chất
     giọng rạn vỡ,  bièn giới của các loại hình ngôn từ rạn vỡ, vừa  hiện đại vừa cổ điển,
     cách tân và duy giữ... tất cả đã tạo nên nét đặc trưng độc đáo cho Đáy thôn  Vỉ Dạ.
     Đặc trưng lời thơ ấy cũng là đặc trưng của lời vàn xuôi hiện đại (theo chiểu  ngược
     lại), đặc biệt là tiểu thuyết.  Sự đổi thay này có lô-gích riêng của  nó, suy cho cùng
     đó là lố-gích của sư vận động các loại hình lời thơ trong ý thức của tôi - trữ tình.

     62
   58   59   60   61   62   63   64   65   66   67   68