Page 52 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 52

thê' hệ,  một lớp người trong đó có thi nhân.  Tràng giang không  phải là một bài thơ
      tả cảnh thông thường. Đó là  một kiệt tác nói về nỗi cô đơn,  nhỏ bé của kiếp người
      trong vũ trụ.
         Khổ thơ thứ hai dựng lên một không gian hiu vắng. Ý thơ Chinh phụ ngâm hiện
      về trong câu thơ đầu: Non Kỳ quạnh quẽ trảng treo - Bến Phi gió thổi đìu hiu mấy
      gò.  Thì  ra  cái đìu  hiu  của  Huy Cận không  hẳn  là  của  hiện tại,  nó vốn  có tự ‘Ihời
      nào” thổi đến. Nỗi hiu vắng đã vượt qua mọi giới hạn thời gian, lan toả khắp không
      gian. Trong  không gian ấy vọng lên một âm thanh  mơ hồ. Đó không  phải là tiếng
      vọng của một  ‘phiên chợ vãn” nào cụ thể, mà là thứ âm thanh rung lên từ cõi buồn
      Huy Cận. Bởi thế, nó mơ hồ mà ám ảnh.

         Hai câu thơ; Nắng xuống, trời lên sâu chót vót - Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
      là một cách đo không gian độc đáo. Chữ sâu được dùng  một cách xuất thần.  Mỏ
      ra trước mắt ta một không gian ba chiều.  Nhưng điều đáng nói là một chiều khác;
      không gian ấy được thu vào cái nhìn của một nỗi buồn vạn kỷ.  Nỗi buồn vắng của
      ngoại cảnh  hoá  ra là ảnh xạ của  nỗi  buồn vắng nội tâm.  Sông dài,  trời rộng,  bến
      cô liêu là nốt láy của đề từ nhằm khẳng định thêm sự vắng vẻ của không gian, sự
      đơn độc của con người.

         Khổ thơ thứ ba đẩy nỗi cô đơn đến tuyệt đối qua hai lần phủ định. Bốn câu thơ
      mang bốn vẻ buồn khác nhau:  1- nỗi buồn phiêu dạt; 2- không một đò ngang giao
      nối đôi  bờ;  3- không  một chiêk: cầu giao cảm; 4- lặng lẽ  hững  hờ.  Nếu để ý ta sẽ
      thấy  mở đầu  câu thơ thứ nhất của  khổ hai  là /ơ thd,  mở đầu  dòng  cuối cùng khổ
      thơ thứ ba  là  lặng  lẽ.  Lơ thơ và  lặng lỗ chính  là  cái  nền  cảnh  của  Tràng giang.
      Trong  không  gian  hiu  vắng  rộng  dài  ấy,  mọi  mối tương  giao đã  bị cắt lìa.  Tất cả
      đều chìm vào cô đơn, hờ hững.
          Tuy nhiên,  vẻ đẹp của thi  phẩm thể hiện  rõ nhất trong  khổ thơ cuối.  Hai  câu
      thơ:  Lớp lớp mày cao đùn núi bạc - Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa dựng
      trên  một không  gian  đối  lập;  một  bên  là  không  gian  hùng  vĩ tráng  lệ,  một  bên là
      cánh chim  nhỏ  bé, cô độc giữa  bầu trời,  ở câu trên,  Huy Cận  học được chữ đùn
      trong câu thơ dịch của Đỗ Phủ: Lưng trời gợn sóng lòng sông thẳm - Mặt đất mây
      đùn cửa ải xa. Câu thơ sau được xây dựng trên một thi liệu truyền thống: hình ảnh
      cánh chim chiều u ẩn. Dấu hai chấm trong câu thơ sau cho thấy mối quan hệ giữa
      cánh  chim và  bóng  chiều.  Nó tạo ra  độ mỏ cho câu thơ;  chim  nghiêng  cánh trút
      chiều xuống tràng giang hay bóng chiều đã làm chim nghiêng cánh? Trong thế đối
      lập, hình ảnh cánh chim chiều càng nhẹ mỏng, nó cũng nhỏ bé  như sô' phận con
      người trong sự rộng lạnh của không gian.

          Hai câu thơ sau xui người đọc nhớ đến hai câu thơ của Thôi Hiệu:
                     Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
                     Yên ba giang thượng sử nhàn sầu

                                                                               51
   47   48   49   50   51   52   53   54   55   56   57