Page 48 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 48
của “buồn điệp điệp”. Tương tự “Củi một cành khô lạc mấy dòng” cũng có cấu trúc
như câu thơ trên. Nhờ sự uyển chuyển trong cách kết hợp từ ngữ, đặt cảu này nên
câu thơ Tràng giang có khả năng đề xuất rất nhiều trường nghĩa. Hiểu cách nào
cũng có thể chấp nhận. Vậy thì khi tiếp xúc với văn bản, độc giả sẽ nhận thấy hình
tượng thơ của Tràng giang rất linh hoạt và đa diện mạo đến mức khác thường.
Cụm từ ‘Ihuyền về nước lại” trong câu ‘Ihuyền về nước lại sầu trăm ngả” có
thể hiểu theo cách ‘Thuyền về” là nguyên nhân làm “nưỏc lại sầu trăm ngả”. Chữ
“lại” là trạng từ chỉ sự lặp: trước đó nước đã sầu bây giờ vắng thuyền nước lại thêm
sầu. Nhưng đặt trong kết cấu “thuyền về nước lại” theo mạch ngắt của câu thơ,
(1) Thuyền về / nước lại / sầu trăm ngả
Hoặc (2) Thuyền về nước lại/sầu trăm ngả
Cách ngắt nào thì “sầu trăm ngả” cũng bị tách khỏi bốn từ kia nên chữ lại còn
mang nghĩa của về (thuyền về bến, thuyền lại bến). Đến đây chủ thể của “sầu
tràm ngả” có thể hiểu theo ba cách: “nước lạr, ‘Ihuyền về nước lại”, tôi (ta) hoặc
bất kì ai cũng có thể đặt mình vào khung cảnh ấy để “sầu trăm ngả”. Dựa vào
cách ngắt câu truyền thống và am hiểu sâu sắc tính đa nghĩa của ngôn từ, Huy
Cận đã tạo nên một lan toả, giao thoa ngữ nghĩa độc đáo trong Tràng giang. Nhờ
đó, người đọc dễ có chỗ đứng, dễ hoà với tâm trạng của chủ thể trữ tình của bài
thơ.
Tràng giang là bài thơ tả cảnh và mượn cảnh ngụ tình. Bút pháp miêu tả của
bài thơ trước hết, được mượn của hội hoạ. Nghệ thuật hội hoạ, như chúng ta đã
biết là nghệ thuật không gian. Tràng giang là bài thơ chiếm lĩnh không gian. Điểm
nhìn của bài thơ tiến dần từ gần đến xa, từ thấp lên cao, từ ngoại cảnh đến tâm
cảnh... Thoạt tiên là những con sóng trên sông. Cái nhìn ỏ đây rất gần và rất kĩ
nếu không nhìn kĩ thì sẽ không thấy “sóng gợn”. Tiếp đến là ‘Ihuyền”, là “củi”. Xa
hơn là “cồn nhỏ” rồi cả bầu trời, sắc nắng trên sông. Khả năng quan sát ở đây thật
kì lạ. Trời không cao như thường lệ mà là sâu, “sâu chót vót” . Sáu gợi lẽn không
gian hẹp, do đó vị trí của thi nhân giữa đất trời lồng lộng lại hoá ra được hạn định
bỏi nhũmg giới hạn nào đó, tuy vô hình nhưng tỏ rõ sức mạnh bền vững của nó.
Bên cạnh đó, “chót v ó f lại là từ thường được dùng để miêu tả chiều cao và diễn tả
sự chênh vênh song lại được Huy Cận dùng bổ nghĩa cho sâu. Cách kết hỢp này
chưa bao giờ xuất hiện trong giao tiếp đời thường và cả trong thi ca trước Tràng
giang. Thì ra, không gian ấy là không gian tâm trạng. Lấy sự mênh mông thiên địa
để giam hãm một tâm hồn buồn nhớ, lấy cái sâu của đất trời để đo cái sâu của
lòng người. Mang cái chót vót của vũ trụ để đôi nghịch với thăm thẳm của hồn
người, tứ thơ nương theo cõi vô cùng để gieo nỗi niềm nhân thế.
vẫn những chi tiết, cảnh vật liên quan đến dòng sống, bầu trời nhưng được
đặt trong thế đối,
47