Page 50 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 50
của Tràng giang là cái buồn nhớ mang tầm vũ trụ. Vì lẽ này mà không khí man
mác của hồn thơ dễ dàng đồng cảm với bao nỗi nhớ nhung của hồn người khi
đứng trước một khung cảnh, một đổi thay mà cõi lòng chưa dễ hoà hợp.
Tràng giang không có âm thanh mặc dù chính Huy Cận giải thích câu thơ
Đàu tiếng làng xa vãn chợ chiều như sau; “Đâu đây vẳng lại đôi tiếng lao xao của
buổi chợ chiều. Thật không gì vui bằng lúc chợ đông và buồn bằng khi chợ chiều
tan tác, không có tiếng người thì cảnh vật hoang vắng và xa lạ. Đôi chút âm thanh
của cuộc sống con người không làm bớt đi sự vắng lặng nhưng vẫn tạo được ít
nhiều màu vẻ của cuộc sông” .
Có hai cách hiểu câu thơ này;
(1) Không có âm thanh: Đâu (có) tiếng làng xa vãn chợ chiều.
(2) Có âm thanh: Đâu (đây có) tiếng làng xa vàn chợ chiều.
Khi đưa ‘liếng làng xa vãn chợ chiều” vào Tràng giang, Huy Cận đã nghe àm
thanh ấy trong đời thực nhưng vì câu thơ bắt đầu bằng chữ đâu đa nghĩa và đặt
trong âm hưởng chung của bài thơ là đâụ có nên chúng tôi đề xuất cách hiểu theo
lôgíc nội tại của bài thơ là: tâm hồn thi sĩ muốn vươn đến một chút âm thanh nào
đó để khuây khoả nỗi niềm, nhưng vạn vật cứ mãi chìm vào vùng tịch liêu.
Trong khi đó, thời gian chỉ tập tmng vào một khoảnh khắc: chiều tối, với bốn
tín hiệu: chợ chiều, nắng xuống, bóng chiều, hoàng hôn. Thời gian Tràng giang
không vận động. Khởi đầu là bóng chiều và kết thúc cũng trong bóng chiều ấy.
Khác với thi hào Vích-to Huy-gô, người thường chọn một thời khắc hoàng hôn (như
Mùa gieo hạt - buổi chiều, Đêm tháng sáu), và để cho thời gian vận động đến bình
minh nhằm nêu bật phản đề bóng tối - ánh sáng, thì thời gian trong Tràng giang
của Huy Cận ngưng đọng, bị phong kín trong sắc chiều vàng vọt. Màu chiều gợi
nỗi buồn tê tái. cảm giác lạc lõng bơ vơ của nhà thơ vì thế càng trĩu nặng hơn.
Điểm tô thêm bầu tâm trạng bảng lảng, phiêu định trước đất trời ấy là hệ
thống từ láy. Có lẽ Tràng giang là bài thơ sử dụng nhiều từ láy nhất trong thơ ca
Việt Nam. Trong tổng số 16 dòng thơ (112 chữ) thì có đến 9 từ láy (18 chữ); điệp
điệp, song song, lơ thơ, điu hiu, chót vót, mênh mông, lặng lẽ, lớp lớp, dợn dợn\ và
cả một từ láy đặc biệt: hàng nối hàng. Bốn trong số từ láy đó đứng ỏ đầu câu và
bốn từ đứng ở cuối câu, chỉ một từ đứng giữa câu ỏ khổ cuối.
Lớp lóp mày cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cành nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng qué dợn dợn với con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Bố trí từ láy chủ yếu ở đầu và cuối câu thơ, Huy Cận càng làm tăng thêm nhạc
Tiếng kêu ban mã rầu rầu bên tai Ị (Trần Trọng Kim dịch)
49