Page 49 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 49

Nắng xuống trời lên sâu chót vót
                      Sông dài trời rộng bến cô liêu.
         Xuống, lên,  dài, rộng, bức tranh phong cảnh được mở ra cả bốn hướng.  Danh
     từ đối với danh từ (nắng,  sõng,  trời),  động từ đáp lại động từ [xuống,  lén...).  Hình
     thức thơ cân  đối,  hài  hoà.  Song trên  nền  phong  cảnh  ấy, tác giả  tạo  nên  những
     động thái diễn tả sự chông chênh,  lí tách  không  hoà  hợp của  đất trời sông  nước:
     xuống, lên, chót vót, dài, rộng, cô liêu.  Dùng động (âm thanh) để nhấn mạnh thêm
     tĩnh là đặc trưng của Đường thi<^*. Còn ở đây  Huy Cận lại dùng hài hoà (âm điệu)
     để khoét sâu thêm sự ngàn cách.
         Tuy nhiên, hình thức đối của  Tràng giang vẫn thường bị phá vỡ quy tắc. ở hai
     câu  thơ trên,  “sâu  chót vóf’ thì  không  đối  với “bến  cô liêu” cả  về từ loại  lẫn  ngữ
     nghĩa tuy vẫn giữ quy tắc về đối thanh (bằng, trắc). Việc pỊjằ cách này cho thấy sự
     cách tân và tính hiện đại của bài thơ. Cái chót vót yà cô liệu ấy sở dĩ lạc lõng là vì
     chúng  không thuộc về  nắng trời,  sông mà thuộc về (òng hgười,  một  người  không
     hoà nhập nổi trong cảnh sắc ấy.
         Không gian đến đây rộng mở hơn và tiếp nối mạch cô liêu ấy là bèo dạt, vắng
     bóng  đò  ngang,  không  cầu,  chỉ bờxạnh tiếp bãi  vàng...  những  miêu  tả  này vẫn
     nằm trên  mặt đất,  từ dòng sông, tác giả  hướng tầm  mắt  lên bến  bờ.  Và  đến  khổ
     thứ tư thì không gian Thơ mới chiếm lĩnh độ cao: núi xa và mây cao. Chưa đủ, tâm
     hồn nhà thơ còn dõi theo cánh chim chiều mong gặp chút tri âm tri kỉ.  Nhưng vạn
     vật và đất trời kia vẫn lang thang về miền vô định nên tâm  hồn lữ khách vẫn mòn
     trong khắc khoải, nhớ nhung.
         Sự vật xuất hiện với tần số cao nhung không có mối dây gắn bó. Tất cả tồn tại
     theo kiểu “Gió theo lối gió mâỳ đường mây” (Hàn Mặc Tử), bèo dạt mây trôi, nắng
     xuống,  chiều  lên,  sông  dài trời  lạnh...  những  mảng  không  gian  xa  cách  tịch  liêu.
     Miêu tả  không gian vận động,  cái  nhìn của thi  nhân, vì thế không còn  là  cái  nhìn
     của hội hoạ nữa mà đích thị là cái nhìn của điện ảnh.
         Tác giả  đã  viện  dẫn  cả  trời  (mây cao),  đất (bờ xanh,  bãi  vàng),  sông  (tràng
     giang),  núi (núi  bạc) để minh giám cho nỗi  nhố của  mình. Vậy  nên cái buồn  nhớ



     (1)  Chẳng hạn  như trong bài  Tông hữu nhân,  Lí Bạch chỉ  dùng  mỗi  tiếng hí của con
        ngựa  ỏ cuối  bài  thơ để  làm  tăng vẻ  tĩnh  lặng của  nỗi  buồn  li  biệt  khiến  nỗi  buồn
        càng buồn hơn.  Bài thơ như  sau: Thanh Sơn hoành bắc quách  /  Bạch thủy nhiễu
        đông thành  /  Thử địa nhất vi biệt  /  Cô bồng vạn lí chinh  Ị Phù vân du tử ý  / Lạc
        nhật cô'nhân tinh  / Huy thủ tự tư khứ /  Tiêu tiêu ban mã minh  /  ■
     Dịch thơ: Tiễn người ban
        Chắn ngang bắc quách non xanh  / Dòng sông trắng xoá, đông thành chảy quanh  /
        Bùi ngùi chốn ấy đưa anh  / Mái bồng muôn dặm lênh đênh bến bờ / Người đi theo
        áng mây xa  /  Băn khoăn tinh  bạn bóng tà khôn lưu  /  Vạy tay từ đấy xa  nhau  /


      48
   44   45   46   47   48   49   50   51   52   53   54