Page 46 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 46
sông khói sóng cho buồn lòng mới xuất hiận mà ngay đấu bài thơ, hình ảnh
“sóng gợn tràng giang” đã gợi trong ta cảm giác về khói sóng. Sự tương ứng đầu
cuối của bài thơ đã mang lại cấu trúc rất chặt chẽ cho nó, khiến toàn bộ bài thơ là
một hệ khép kín của sông, sóng, nưóc, thuyền, núi, mây, mặt trời, cánh chim,
làng... Những khách thể nghệ thuật này được sắp xếp, liên tưỏng một cách đặc
biệt theo dòng tâm trạng buồn man mác để đi đến cái kết là nhớ nhà. Đây là tâm
trạng thực, tâm trạng chủ đạo của bài thơ. Nó kiến tạo hết thảy giọng điệu, điểm
nhìn và cách lựa chọn ngôn từ thơ:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Mang tâm trạng nhớ nhà nên khi nhìn sóng gợn trên sông thi nhân mới cảm
thấy buồn hơn. “Điệp điệp” ở đây vừa diễn tả những con sồng nhỏ cứ gợn hoài,
tiếp nối nhau nhưng cũng vừa diễn tả nỗi buồn chồng chất. Bản thân “sóng gợn”
không gây buồn (chẳng hạn trong Thu điếu của Nguyễn Khuyến cũng có gợn
sóng: “Sóng biếc theo làn hơi gợn tr, nhưng.đẩụ có buồn) mà chỉ tại “Người buồn
cảnh có vui đâu bao giờ’ (Truyện Kiều) thôi. "
Tiếp nối mạch nối cảm xúc chủ đạò nẫỷ, cón thuyền và sông nước trong thơ
ca và cả trong đời thực hiếm khi xa cách nhau finà bây giờ lại hờ hững với nhau,
Con thuyền xuôi mái nứồc sorìg sóng
Thuyền về nước lại sầu tràm ligả
“Nước lại sầu”: bây giờ không phải là sông buồn nữa mà cả dòng nước cũng
buồn. Vậy nên củi trên tràng giang cũng chỉ là một cành,
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Khổ thơ viết về thuyền, sông, sóng, củi. Chủ là dòng sông. Khách là con
thuyền, cành củi. Chủ và khách đều chuyển động, nhưng cái động đó không
mang lại sự gắn bó đầm ấm mà lại gây nên nỗi cô đơn vô tận trong sự li cách của
chúng. Nỗi lạc lõng được gợi lên từ bốn động từ trong cả bốn câu: buồn, xuôi, sầu,
lạc. Chưa hết, chúng còn được kết thúc bằng những trạng từ nhằm làm tăng thêm
bầu không khí u uẩn ấy. Nếu ở hai câu đầu là các trạng từ lấp láy; “điệp điệp” ,
“song song” gieo và lòng người nỗi buồn rợn ngợp, thì ỏ hai câu sau là các
trạng từ hạn định, nhưng lại hoàn toàn phiếm chỉ: ‘1răm ngả, mấy dòng” nối tiếp
thêm vẻ hoang mang, trống vắng kia. Hệt như cõi lòng thi sĩ, ngập trong cô đơn
thương nhớ nhưng biết đi về đâu?
Câu thơ đầu của khổ thứ hai được lèn trong một cặp từ láy,
Lứ thơ cân nhỏ gió đìu hiu
“Lơ thơ’ diễn tả sự thưa thớt, mong manh, thường dùng để tả cây cối, lá cành,
(1) Thôi Hiệu, Hoàng Hạc lâu, Tản Đà dịch.
4Õ